Soksaray Blog's - LUẬT THƠ ĐƯỜNG LUẬT CỦA HOÀNG THỨ LANG
https://www.blogger.com/blogger.g?blogID=9098976548109066313#editor/target=post;postID=4143181847833952830Được trích dẫn từ bài viết
LUẬT THƠ ĐƯỜNG LUẬT CỦA HOÀNG THỨ LANG
http://www.vietlandnews.net/forum/showthread.php?t=26988
Thi Pháp Thơ Đường Luật
Bàn về thơ Đường luật
_______________________________________________________
Thi vận (vần của thơ)
Thanh, Vận, Ðiệu là 3 yếu tố chính tạo ra thi nhạc, và nhạc là yếu tố làm cho thơ khác văn. Ðó là nói về tính chất, nói về nội dung. Còn nói về hình thức thì thơ khác văn do vận. Văn không vần nên gọi là Tản Văn. Thơ có vần nên gọi là Vận Văn.
Do đó trong ba yếu tố Thanh, Vận, Ðiệu. Vận chiếm địa vị quan trọng hơn cả.
Vận là gì ?
Sách xưa dạy:
Vận là những tiếng đồng âm với nhau, những tiếng khi phát âm nghe na ná như nhau.
Lưu Hiệp đời Lục Triều bên Trung Quốc, tác giả bộ Văn Tam Ðiêu Long, giải thích rằng:
Ðồng Thanh tương ứng vị chi Vận
Giải như thế, Tàu cũng như Ta, có phần trừu tượng quá.
Thật chẳng khác hỏi một thiếu nữ nhà cô ở đâu, cô đáp :
Nhà tôi ở dưới đám dâu,
Ở trên đám đậu có cầu bắc ngang
Hoặc:
Nhà tôi trở mặt ra sân,
Ở xa có núi ở gần có sông
Ði tìm cho ra nhà cô ấy, tất phải mất nhiều công sức, nhiều thì giờ, và không tránh khỏi lạc đường lạc nẻo.
Ðể giúp cho người làm thơ khỏi lạc đường và tới đích mau chóng, học giả Trung Hoa đã soạn nhiều bộ Thi Vận Tập Thành, thường gọi là sách quan vận, là vận thư. Ðời Tùy có sách Thiết Vận, đời Ðường có sách Ðường Vận, Quảng Vận, đời Tống châm chước những bộ sách đời trước, soạn ra bộ Lễ Bộ Vận Lược, được triều đình dùng làm chuẩn tắc cho thi vận trong việc khảo thí. Các đời sau cũng theo gương đời Tống, soạn ra những sách quan vận mới. Nhà Nguyên có sách Trung Nguyên Âm Vận, nhà Thanh có sách Bội Văn Vận Phủ, Trung Hoa Dân Quốc có Trung Hoa Tân Vận ...Sách Trung Hoa Tân Vận chưa được đem ra áp dụng. Ðược thông dụng nhất là Bội Văn Vận Phủ.
Theo quyển vận thư này thì thi vận xếp theo ngũ thanh (thượng bình, hạ bình, thượng, khứ, nhập) và có tất cả 106 vận. Thượng bình có 15 vận là Ðông (phương Ðông). Đông (mùa Ðông), giang, chi, vi, ngư, ngu , tề, giai, khôi, chân, văn, nguyên, hàn, san. Hạ bình có 15 vận là tiên, tiêu, hào (hỗn hào), hào (hào kiệt), ca, ma, dương, canh, thanh, chưng, vưu, xâm, đàm, diêm, hàm. Hai thanh Bình hợp lại gọi là Bằng, vần Bằng. Còn vần Trắc thì gồm tất cả các vận trong các thanh Thượng, Khứ, Nhập, tất cả có 76 vận. Ðể khỏi bị lạc vận, cổ nhân thường học thuộc lòng những chữ xếp vào bình thanh và khi cần, mở sách ra tra cứu.
Nước Việt Nam chưa có sách quan vận. Các cụ ngày xưa đều dùng sách Tàu khi làm thơ chữ Nôm cũng như khi làm thơ chữ Hán.
Chúng ta ngày nay không còn làm thơ chữ Hán, và cũng rất ít người đọc thông chữ Hán, lại thêm nhiều chữ đã theo thời gian mà biến âm thanh. (Ví dụ Ðông là Đông phương, và Ðông là mùa Ðông, và hào là hào kiệt và hào là hỗn hào, chúng ta đều đọc là Ðông là Hào mà chưa chia ra thành những vận khác nhau, và Ðông này không áp vận cùng Ðông kia được, Hào kia không hợp vận cùng Hào này được.
Ðó là vì Ðông mùa và Ðông phương, Hào này và Hào nọ, xưa kia đọc khác hẳn nhau, mà ngày nay thì đọc giống nhau. Vậy cho nên những vận thư của Trung Hoa kể ra chỉ để các bạn thấy rằng cổ nhân rất xem trọng Vận, chớ không thể đem ra áp dụng cho việc tìm vần được nữa.
Thơ Nôm xuất hiện từ đời Trần, nhưng trên 700 năm nay chưa có một quyển sách nào nghiên cứu về thi vận. Các cụ ngày xưa thì dựa vào Vận Thư của Trung Hoa, chúng ta thì dựa vào những tác phẩm lưu truyền của các cụ. Đối với các cụ thơ Nôm chỉ là một món tiêu khiển trong chốc lát, nên Vận thơ có chỉnh hay không chỉnh, các cụ không mấy quan tâm . Do đó mà có nhiều bài thơ rất hay nhưng có đôi chỗ vần không “tương ứng” không “na ná” như nhau. Thí dụ:
Lác đác rừng phong hạt móc sa
Ngàn Vu hiu hắt khí Thu mờ
Phong cảnh Tây Hồ chẳng khác xưa
Người đồng châu trước biết bao xa
Trời Thu ngăn ngắt mấy tầng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu
Ðọc nghe thật không suông tai. Nhưng cũng lắm người bắt chước, vì xưa bày nay làm và tin các cụ học rộng tài cao đã làm là phải đúng. Nhưng có đúng theo vận luật của Tàu không ? Không sai. Nhưng đối với những kẻ thẩm âm bằng đôi tai nghệ sĩ, thì những vần gieo như thế nghe không hoàn hảo bao nhiêu.
Ðã công nhận Vận là một yếu tố của thơ, thì vần thơ phải cho chỉnh đốn.
Ðể gieo vần được chỉnh đốn, làng thơ quốc âm đã có chuẩn tắc truyền miệng cho nhau, và ai theo ai không theo tùy ý. Xin trình bày ra đây để cùng các bạn nghiên cứu thêm:
Ðể biết tiếng nào đồng âm với tiếng nào, chúng ta lấy những mẫu tự khởi đầu làm tiêu chuẩn, và để biết tiếng nào đồng thanh với tiếng nào, chúng ta lấy những dấu Không, Huyền, Sắc, Nặng, Hỏi, Ngã làm tiêu chuẩn. Như trước đã nói, để biết những tiếng nào cùng một bộ vận với nhau, cố giáo sư Trần Cảnh Hảo đề xướng ra phép dùng Khuôn và Dấu.
Khuôn là gì ?
Là một nhóm chữ do một hay hai nguyên âm (voyelle) ráp với 1 hay 2 phụ âm (consonne) thành vần (syllabe), tự nó có thể thành một chữ.. Thí dụ trong chữ Ban, Kinh, Cương, Luôn ... thì An, Inh, Ương, Uôn là khuôn.
Những chữ nào đồng một khuôn và đồng một thanh với nhau là đồng một bộ vận. Thí dụ những tiếng Ban, Bàn, Bán, Bạn, Bản, Bãn là những tiếng đồng một khuôn, nhưng khác thanh. Nên Ban và Bàn đồng một bộ vận với nhau thuộc vần Bằng còn Bán Bạn Bản Bãn thuộc vần trắc, tuy khác thanh nhưng vẫn cùng vần với nhau.
Nói tóm lại là vận có hai loại: loại vần bằng và loại vần trắc. Những chữ đồng một khuôn và có dấu huyền cùng không dấu thuộc vần Bằng và cùng một bộ vận với nhau. Những chữ đồng một khuôn và có các dấu Sắc, Hỏi, Ngã, Nặng là thuộc vần Trắc và cùng một bộ vận với nhau. Thí dụ: Ban, Bàn, Can, Càn, Dan, Dàn, Ðan, Ðàn, Gan, Gàn, Han, Hàn, Khan, Khàn, Lan, Làn, Man, Màn, Phan, Phàn, Quan, Quàn, Ran, Ràn, San, Sàn v.v... là đồng một bộ vận với nhau.
Ðó là nói về loại vần Bằng. Còn loại vần Trắc thì khuôn giống nhau mà chữ này Thanh Thượng, chữ kia Thanh Khứ, cũng đều là đồng một bộ vận. Như Bán, Cán, Cạn, Ðản, Ðạn... đều đồng một bộ vận. Riêng những chữ về Nhập Thanh, tuy cùng thuộc loại vần Trắc, mà chữ có hậu phụ âm T tạo cho mình một bộ vận riêng, chữ có hậu phụ âm P tạo cho mình một bộ vận riêng. Những chữ có phụ âm C, CH cũng vậy. Những bộ vận này không thể lẫn lộn nhau và không thể nhập với những bộ vận về Thượng Thanh, Khứ Thanh.
Thơ Ðường luật ít khi dùng vần Trắc cho nên không cần đi sâu.
Trong nhiều bài thơ vần Bằng được truyền tụng, chúng ta lại thấy có nhiều bài không theo quy tắc “đồng một khuôn”.
Thí dụ bài Không Chồng mà chửa của Bà Hồ Xuân Hương:
Trót lỡ ra rồi dám thở than
Riêng hiềm vì nỗi má hồng nhan
Duyên thiên chưa thấy nhô đầu ngược
Phận liễu sao đà nảy nét ngang
Gánh nợ trăm năm chàng trút cả
Khối tình ba kiếp thiếp riêng mang
Chị em nhắn nhủ đừng chê trách
Không có nhưng mà có mới ngoan
Than, Nhan, Ngoan thuộc khuôn An, Ngang, Mang thuộc khuôn Ang, mà lại ghép vần với nhau, như thế là sái là không đúng. Cách gieo vần như thế không phải là hiếm, Trần Tế Xương cũng thường vấp phải:
Trời không chớp bể với mưa nguồn
Ðêm nảo đêm nao tớ cũng buồn
Bối rối tình duyên cơn gió thoảng
Nhạt nhèo quang cảnh bóng trăng suông
Khăn khăn áo áo thêm bầy chuyện
Bút bút nghiên nghiên khéo giở tuồng
Ngủ quách sự đời thây kẻ thức
Bên chùa thằng trọc đã hồi chuông
Những vận thuộc khuôn Uôn ghép với những vận thuộc khuôn Uông. Nếu chúng ta chịu khó “lắng tai Chung Kỳ” thì nhận thấy khi đọc lên, Ang cũng như Uông ngân dài hơn An và Uôn. Thi nhạc của những câu mà vần không có chữ G ở sau kém hơn các câu có G.
Nhưng thi vận chia làm hai thứ:
- Chính Vận (vần chính).
- Thông Vận (vần thông).
Chính Vận là những vận đồng một khuôn.
Thông Vận là những vận tuy không đồng một khuôn nhưng đọc lên nghe tương tợ, na ná như Nhan và Mang, Buồn và Chuông, Huông. Có nhiều địa phương đọc những chữ có G và không có G giọng giống in nhau. Chỉ những người từ Thanh, Nghệ, Tĩnh trở ra mới đọc đúng giọng và mới có thể phân biệt dễ dàng độ dài ngắn của những chữ có G và không G.
Do đó với những chữ có G và không G, làng thơ chia làm hai phái. Một phái nhận là Ðồng Vận, một phái cho là Lạc Vận.
Chúng ta không nên cứng rắn quá, cũng không nên dễ dãi quá. Chúng ta chỉ nên ghép những vần có G với những vần không có G. Những vần không G với những vần có G, trong trường hợp “bất khả kháng”, nghĩa là chúng ta chỉ ép vận khi nào nhận thấy làm như thế tuy có phần thất về mặt âm vận nhưng thêm phần đắc về mặt tình tứ. Song nếu có thể tránh được thì vẫn hơn.
Chúng ta nên tránh ghép những vần: UA, U, Ư vào Ô, O, Ơ như bài Than Thời Loạn của Vua Lê chúa Trịnh:
Lửa hồng từ dậy mái thành đô
Ðòi chốn lầm than chuyện được thua
Xanh biếc thú quê người ẩn dật
Bạc đen đường thế khách bôn xu
Suy tường mỗi mỗi đau lòng trí
Tính quẩn trần trần nát dạ ngu
Mong tới Vị Xuyên mà hỏi Lữ
Rằng Thương xưa cũng thế này ư
Bài thơ được truyền tụng là nhờ lời đẹp và phản ảnh thời thế, được các nhà làm sách thi tuyển thủ thứ là do ý thú, chớ không phải do âm vận. Những duyệt giả chuộng thanh điệu không thích bài này. Một bài thơ gồm được cả thanh điệu ý thú mới là hoàn hảo.
Chúng ta cũng thường gặp trong thơ xưa, những vần AO, ÂU, IU, EO ... ghép lại với nhau. Như trong bài Thu Vịnh của Nguyễn Khuyến:
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu
Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Ðào
Bài này là một danh tác, nên không mấy người dám chê vần Cao mà xuống vần Hiu nghe thật “chói tai". Chẳng những không dám chê mà còn khen hai vần đó đứng sát nhau gây nơi người đọc cái cảm giác “xa cách, rời rạc”, làm cho giác quan cảm thấy cảnh đã mênh mông thêm mênh mông, tình đã hiu quạnh thêm quạnh hiu. Cũng có người khen những vần Ðô, Thưa, Xư, Ngư, Ư trong bài Than Thời Loạn ở trên là làm cho người đọc thêm thấy rõ cảnh loạn thời Lê Trịnh. Thấy rõ là nhờ sự lủng củng của vần gây nên.
Khen như thế thật chẳng khác nào anh chồng si tình khen vợ mình nhờ chột một mắt mà trở thành tuyệt thế giai nhân.
Chúng ta không nên theo hùa.
Thơ là tiếng của lòng (tâm chi thanh). Thơ phải có nhạc mới dễ truyền cảm. Mà vần là một yếu tố quan trọng để tạo nhạc. Vậy chúng ta phải cố tránh những vần ép như những vần trên đây. Nếu không dùng được những vần Chính thì nên dùng những vần Thông gần nhau (cận vận), càng gần nhau bao nhiêu thì càng quý bấy nhiêu.
Những Vần Thông gần nhau đi với những vần sau đây:
ai với oai - ôi với ơi – ơi với nơi – au với âu – ay với ây, oay – ia với uya - ui với uôi – yêu với êu, iêu, iu - âm với ăm - ăn với ân - ong với ông hay ung - anh với oanh, ênh, inh, uynh - yên với iên, uyên...v.v...
Chúng ta nên cẩn thận khi dùng những chữ đồng âm dị nghĩa như Trường là ruột và Trường là dài, Trường là chỗ nhiều người tụ họp (hội trường, trường học...). Bên Hán tự thì mặt chữ khác nhau, bên quốc ngữ thì khuôn giống nhau. Như thế bên Hán cũng như bên Việt đều là những chữ đồng vận và đều là Chính Vận. Nhưng không nên dùng gần nhau vì dùng gần nhau sẽ kém nhạc, chẳng những kém mà còn hại là đằng khác:
Tầm phương bước lạc đến công trường
Thấy cảnh tình ai khỏi đoạn trường
Nghe thật không suông tai !
Ðối với những tiếng đồng âm dị nghĩa trong thuần Việt cũng thế. Nếu không để chúng ở một “đầu sông tương”, một ở “cuối sông Tương”, như trong Thăng Long Thành Hoài Cổ của bà Huyện Thanh Quan, thì ít ra phải để cách nhau ở một bến đò, nghĩa là có chen một vần khác ở giữa. Thí dụ như bài Cảm Tác (khuyết danh) sau đây:
Mấy chục năm qua gió bụi mờ
Tưởng rằng bớt đục hóa thêm nhơ
Mặt đành bôi mặt gà chung mẹ
Tay sẵn ngon tay gió phất cờ
Ruột đứt non sông chờ vận hội
Sầu vương cây cỏ đợi thời cơ
Ðêm đêm dưới nguyệt gươm mài hận
Quang phục quê hương lật thế cờ
Nguyên tắc xếp vần về bên loại vần Trắc cũng như bên vần Bằng. Xin cử một bài thơ vần trắc của Học Lạc làm mẫu:
Vành mâm xôi oản đề thằng Lạc
Nghĩ mình ti tiện không đài các
Văn chương vốn thiệt bợm mèo quào
Danh phận không ra cái cóc rác
Bởi thế bơ phờ thẹn núi sông
Dám đâu vúc vắc nhạo cô bác
Các thầy nếu chẳng biết lòng cho
Trong có ông thần ngoài cặp hạc
Thơ gieo vận trắc nghe không du dương, uyển chuyển nên làng thơ ít ham thích, nhiều thơ vần trắc lưu truyền từ xưa đến nay không được bao lăm. Do đó các nhà thi học bảo rằng Luật Thi chỉ dùng vần Bằng, những bài dùng vần Trắc dù cho đúng niêm luật vẫn thuộc về cổ thể.
Thơ vần Bằng mà dùng chính vận còn lưu truyền không ít. Xin trích một bài Mùa Nực Mặc Áo Bông của cụ Tú Xương làm mẫu:
Bức sốt nhưng mình vẫn áo bông
Tưởng rằng ốm dậy hoá ra không
Một tuồng rách rưới con như bố
Ba chữ nghêu ngao vợ chán chồng
Ðất biết bao giờ sang vận đỏ
Trời làm cho bỏ lúc chơi ngông
Gần chùa gần cảnh ta tu quách
Cửa phận quanh năm sẵn áo sồng
Bài thơ Tặng Vợ (Thương Vợ) của ông Tú sau đây vần gieo chính vận cũng thật là suông:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo xèo mặt nước buổi đò đông
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa, dám quản công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không
Vần gieo đã dòn, tình lại thiết tha, giọng lại dí dỏm ! “Năm con với một chồng” có hai ý. Một là sáu miệng ăn, hai là năm con đó do một ông chồng sanh ra chớ không vì “buôn bán ở mom sông” mà có nhiều con đâu ! Bà Tú mà nhận thấy cái hóm hỉnh này thì cũng đấm cho ông ba cái đấm lưng là ít. Rồi lại nói “có chồng hờ hững cũng như không”. Cũng như không mà có đến năm con, vậy nếu “không như không” thì bà Tú nuôi sao nổi ? Nội vẻ trào phúng kín đáo, và dễ thương đó, bài thơ cũng đủ có giá trị, huống còn tình tứ, còn văn chương mà vần chỉnh tề chiếm một phần quan trọng.
Chúng ta đọc thêm bài Thu Cảm của Tương An Quận Vương, một bài thơ gieo vần cũng thật khéo:
Bên cảnh bên tình khéo vấn vương
Sầu Thu đưa hạ chạnh trăm đường
Tiếng ve dày dặc nghe thêm thảm
Mặt nguyệt tròn hin ngó dễ thương
Vàng thếp giếng ngô sa lá gió
Bạc xuy dậu cúc nảy chồi sương
Sầu chong trắng đĩa không yên giấc
Lăm phá thành sầu đã hết phương
Xúc cảnh mà sinh tình, rồi mượn cảnh nói tình. Văn chương trang nhã, hàm súc. Không cần đi sâu vào nội dung chỉ đọc năm vần Vương, Ðường, Thương, Sương, Phương, cũng đã đủ khoái nhĩ. Thật là văn chương của bậc đại gia.
Xem những vần thơ được truyền tụng từ xưa tới nay, chúng ta nhận thấy các nhà thơ chân chính đều chú trọng sự gieo vần, và những bài thơ hay đều dùng chính vận.
Thanh, Vận, Ðiệu là 3 yếu tố chính tạo ra thi nhạc, và nhạc là yếu tố làm cho thơ khác văn. Ðó là nói về tính chất, nói về nội dung. Còn nói về hình thức thì thơ khác văn do vận. Văn không vần nên gọi là Tản Văn. Thơ có vần nên gọi là Vận Văn.
Do đó trong ba yếu tố Thanh, Vận, Ðiệu. Vận chiếm địa vị quan trọng hơn cả.
Vận là gì ?
Sách xưa dạy:
Vận là những tiếng đồng âm với nhau, những tiếng khi phát âm nghe na ná như nhau.
Lưu Hiệp đời Lục Triều bên Trung Quốc, tác giả bộ Văn Tam Ðiêu Long, giải thích rằng:
Ðồng Thanh tương ứng vị chi Vận
Giải như thế, Tàu cũng như Ta, có phần trừu tượng quá.
Thật chẳng khác hỏi một thiếu nữ nhà cô ở đâu, cô đáp :
Nhà tôi ở dưới đám dâu,
Ở trên đám đậu có cầu bắc ngang
Hoặc:
Nhà tôi trở mặt ra sân,
Ở xa có núi ở gần có sông
Ði tìm cho ra nhà cô ấy, tất phải mất nhiều công sức, nhiều thì giờ, và không tránh khỏi lạc đường lạc nẻo.
Ðể giúp cho người làm thơ khỏi lạc đường và tới đích mau chóng, học giả Trung Hoa đã soạn nhiều bộ Thi Vận Tập Thành, thường gọi là sách quan vận, là vận thư. Ðời Tùy có sách Thiết Vận, đời Ðường có sách Ðường Vận, Quảng Vận, đời Tống châm chước những bộ sách đời trước, soạn ra bộ Lễ Bộ Vận Lược, được triều đình dùng làm chuẩn tắc cho thi vận trong việc khảo thí. Các đời sau cũng theo gương đời Tống, soạn ra những sách quan vận mới. Nhà Nguyên có sách Trung Nguyên Âm Vận, nhà Thanh có sách Bội Văn Vận Phủ, Trung Hoa Dân Quốc có Trung Hoa Tân Vận ...Sách Trung Hoa Tân Vận chưa được đem ra áp dụng. Ðược thông dụng nhất là Bội Văn Vận Phủ.
Theo quyển vận thư này thì thi vận xếp theo ngũ thanh (thượng bình, hạ bình, thượng, khứ, nhập) và có tất cả 106 vận. Thượng bình có 15 vận là Ðông (phương Ðông). Đông (mùa Ðông), giang, chi, vi, ngư, ngu , tề, giai, khôi, chân, văn, nguyên, hàn, san. Hạ bình có 15 vận là tiên, tiêu, hào (hỗn hào), hào (hào kiệt), ca, ma, dương, canh, thanh, chưng, vưu, xâm, đàm, diêm, hàm. Hai thanh Bình hợp lại gọi là Bằng, vần Bằng. Còn vần Trắc thì gồm tất cả các vận trong các thanh Thượng, Khứ, Nhập, tất cả có 76 vận. Ðể khỏi bị lạc vận, cổ nhân thường học thuộc lòng những chữ xếp vào bình thanh và khi cần, mở sách ra tra cứu.
Nước Việt Nam chưa có sách quan vận. Các cụ ngày xưa đều dùng sách Tàu khi làm thơ chữ Nôm cũng như khi làm thơ chữ Hán.
Chúng ta ngày nay không còn làm thơ chữ Hán, và cũng rất ít người đọc thông chữ Hán, lại thêm nhiều chữ đã theo thời gian mà biến âm thanh. (Ví dụ Ðông là Đông phương, và Ðông là mùa Ðông, và hào là hào kiệt và hào là hỗn hào, chúng ta đều đọc là Ðông là Hào mà chưa chia ra thành những vận khác nhau, và Ðông này không áp vận cùng Ðông kia được, Hào kia không hợp vận cùng Hào này được.
Ðó là vì Ðông mùa và Ðông phương, Hào này và Hào nọ, xưa kia đọc khác hẳn nhau, mà ngày nay thì đọc giống nhau. Vậy cho nên những vận thư của Trung Hoa kể ra chỉ để các bạn thấy rằng cổ nhân rất xem trọng Vận, chớ không thể đem ra áp dụng cho việc tìm vần được nữa.
Thơ Nôm xuất hiện từ đời Trần, nhưng trên 700 năm nay chưa có một quyển sách nào nghiên cứu về thi vận. Các cụ ngày xưa thì dựa vào Vận Thư của Trung Hoa, chúng ta thì dựa vào những tác phẩm lưu truyền của các cụ. Đối với các cụ thơ Nôm chỉ là một món tiêu khiển trong chốc lát, nên Vận thơ có chỉnh hay không chỉnh, các cụ không mấy quan tâm . Do đó mà có nhiều bài thơ rất hay nhưng có đôi chỗ vần không “tương ứng” không “na ná” như nhau. Thí dụ:
Lác đác rừng phong hạt móc sa
Ngàn Vu hiu hắt khí Thu mờ
Phong cảnh Tây Hồ chẳng khác xưa
Người đồng châu trước biết bao xa
Trời Thu ngăn ngắt mấy tầng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu
Ðọc nghe thật không suông tai. Nhưng cũng lắm người bắt chước, vì xưa bày nay làm và tin các cụ học rộng tài cao đã làm là phải đúng. Nhưng có đúng theo vận luật của Tàu không ? Không sai. Nhưng đối với những kẻ thẩm âm bằng đôi tai nghệ sĩ, thì những vần gieo như thế nghe không hoàn hảo bao nhiêu.
Ðã công nhận Vận là một yếu tố của thơ, thì vần thơ phải cho chỉnh đốn.
Ðể gieo vần được chỉnh đốn, làng thơ quốc âm đã có chuẩn tắc truyền miệng cho nhau, và ai theo ai không theo tùy ý. Xin trình bày ra đây để cùng các bạn nghiên cứu thêm:
Ðể biết tiếng nào đồng âm với tiếng nào, chúng ta lấy những mẫu tự khởi đầu làm tiêu chuẩn, và để biết tiếng nào đồng thanh với tiếng nào, chúng ta lấy những dấu Không, Huyền, Sắc, Nặng, Hỏi, Ngã làm tiêu chuẩn. Như trước đã nói, để biết những tiếng nào cùng một bộ vận với nhau, cố giáo sư Trần Cảnh Hảo đề xướng ra phép dùng Khuôn và Dấu.
Khuôn là gì ?
Là một nhóm chữ do một hay hai nguyên âm (voyelle) ráp với 1 hay 2 phụ âm (consonne) thành vần (syllabe), tự nó có thể thành một chữ.. Thí dụ trong chữ Ban, Kinh, Cương, Luôn ... thì An, Inh, Ương, Uôn là khuôn.
Những chữ nào đồng một khuôn và đồng một thanh với nhau là đồng một bộ vận. Thí dụ những tiếng Ban, Bàn, Bán, Bạn, Bản, Bãn là những tiếng đồng một khuôn, nhưng khác thanh. Nên Ban và Bàn đồng một bộ vận với nhau thuộc vần Bằng còn Bán Bạn Bản Bãn thuộc vần trắc, tuy khác thanh nhưng vẫn cùng vần với nhau.
Nói tóm lại là vận có hai loại: loại vần bằng và loại vần trắc. Những chữ đồng một khuôn và có dấu huyền cùng không dấu thuộc vần Bằng và cùng một bộ vận với nhau. Những chữ đồng một khuôn và có các dấu Sắc, Hỏi, Ngã, Nặng là thuộc vần Trắc và cùng một bộ vận với nhau. Thí dụ: Ban, Bàn, Can, Càn, Dan, Dàn, Ðan, Ðàn, Gan, Gàn, Han, Hàn, Khan, Khàn, Lan, Làn, Man, Màn, Phan, Phàn, Quan, Quàn, Ran, Ràn, San, Sàn v.v... là đồng một bộ vận với nhau.
Ðó là nói về loại vần Bằng. Còn loại vần Trắc thì khuôn giống nhau mà chữ này Thanh Thượng, chữ kia Thanh Khứ, cũng đều là đồng một bộ vận. Như Bán, Cán, Cạn, Ðản, Ðạn... đều đồng một bộ vận. Riêng những chữ về Nhập Thanh, tuy cùng thuộc loại vần Trắc, mà chữ có hậu phụ âm T tạo cho mình một bộ vận riêng, chữ có hậu phụ âm P tạo cho mình một bộ vận riêng. Những chữ có phụ âm C, CH cũng vậy. Những bộ vận này không thể lẫn lộn nhau và không thể nhập với những bộ vận về Thượng Thanh, Khứ Thanh.
Thơ Ðường luật ít khi dùng vần Trắc cho nên không cần đi sâu.
Trong nhiều bài thơ vần Bằng được truyền tụng, chúng ta lại thấy có nhiều bài không theo quy tắc “đồng một khuôn”.
Thí dụ bài Không Chồng mà chửa của Bà Hồ Xuân Hương:
Trót lỡ ra rồi dám thở than
Riêng hiềm vì nỗi má hồng nhan
Duyên thiên chưa thấy nhô đầu ngược
Phận liễu sao đà nảy nét ngang
Gánh nợ trăm năm chàng trút cả
Khối tình ba kiếp thiếp riêng mang
Chị em nhắn nhủ đừng chê trách
Không có nhưng mà có mới ngoan
Than, Nhan, Ngoan thuộc khuôn An, Ngang, Mang thuộc khuôn Ang, mà lại ghép vần với nhau, như thế là sái là không đúng. Cách gieo vần như thế không phải là hiếm, Trần Tế Xương cũng thường vấp phải:
Trời không chớp bể với mưa nguồn
Ðêm nảo đêm nao tớ cũng buồn
Bối rối tình duyên cơn gió thoảng
Nhạt nhèo quang cảnh bóng trăng suông
Khăn khăn áo áo thêm bầy chuyện
Bút bút nghiên nghiên khéo giở tuồng
Ngủ quách sự đời thây kẻ thức
Bên chùa thằng trọc đã hồi chuông
Những vận thuộc khuôn Uôn ghép với những vận thuộc khuôn Uông. Nếu chúng ta chịu khó “lắng tai Chung Kỳ” thì nhận thấy khi đọc lên, Ang cũng như Uông ngân dài hơn An và Uôn. Thi nhạc của những câu mà vần không có chữ G ở sau kém hơn các câu có G.
Nhưng thi vận chia làm hai thứ:
- Chính Vận (vần chính).
- Thông Vận (vần thông).
Chính Vận là những vận đồng một khuôn.
Thông Vận là những vận tuy không đồng một khuôn nhưng đọc lên nghe tương tợ, na ná như Nhan và Mang, Buồn và Chuông, Huông. Có nhiều địa phương đọc những chữ có G và không có G giọng giống in nhau. Chỉ những người từ Thanh, Nghệ, Tĩnh trở ra mới đọc đúng giọng và mới có thể phân biệt dễ dàng độ dài ngắn của những chữ có G và không G.
Do đó với những chữ có G và không G, làng thơ chia làm hai phái. Một phái nhận là Ðồng Vận, một phái cho là Lạc Vận.
Chúng ta không nên cứng rắn quá, cũng không nên dễ dãi quá. Chúng ta chỉ nên ghép những vần có G với những vần không có G. Những vần không G với những vần có G, trong trường hợp “bất khả kháng”, nghĩa là chúng ta chỉ ép vận khi nào nhận thấy làm như thế tuy có phần thất về mặt âm vận nhưng thêm phần đắc về mặt tình tứ. Song nếu có thể tránh được thì vẫn hơn.
Chúng ta nên tránh ghép những vần: UA, U, Ư vào Ô, O, Ơ như bài Than Thời Loạn của Vua Lê chúa Trịnh:
Lửa hồng từ dậy mái thành đô
Ðòi chốn lầm than chuyện được thua
Xanh biếc thú quê người ẩn dật
Bạc đen đường thế khách bôn xu
Suy tường mỗi mỗi đau lòng trí
Tính quẩn trần trần nát dạ ngu
Mong tới Vị Xuyên mà hỏi Lữ
Rằng Thương xưa cũng thế này ư
Bài thơ được truyền tụng là nhờ lời đẹp và phản ảnh thời thế, được các nhà làm sách thi tuyển thủ thứ là do ý thú, chớ không phải do âm vận. Những duyệt giả chuộng thanh điệu không thích bài này. Một bài thơ gồm được cả thanh điệu ý thú mới là hoàn hảo.
Chúng ta cũng thường gặp trong thơ xưa, những vần AO, ÂU, IU, EO ... ghép lại với nhau. Như trong bài Thu Vịnh của Nguyễn Khuyến:
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu
Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Ðào
Bài này là một danh tác, nên không mấy người dám chê vần Cao mà xuống vần Hiu nghe thật “chói tai". Chẳng những không dám chê mà còn khen hai vần đó đứng sát nhau gây nơi người đọc cái cảm giác “xa cách, rời rạc”, làm cho giác quan cảm thấy cảnh đã mênh mông thêm mênh mông, tình đã hiu quạnh thêm quạnh hiu. Cũng có người khen những vần Ðô, Thưa, Xư, Ngư, Ư trong bài Than Thời Loạn ở trên là làm cho người đọc thêm thấy rõ cảnh loạn thời Lê Trịnh. Thấy rõ là nhờ sự lủng củng của vần gây nên.
Khen như thế thật chẳng khác nào anh chồng si tình khen vợ mình nhờ chột một mắt mà trở thành tuyệt thế giai nhân.
Chúng ta không nên theo hùa.
Thơ là tiếng của lòng (tâm chi thanh). Thơ phải có nhạc mới dễ truyền cảm. Mà vần là một yếu tố quan trọng để tạo nhạc. Vậy chúng ta phải cố tránh những vần ép như những vần trên đây. Nếu không dùng được những vần Chính thì nên dùng những vần Thông gần nhau (cận vận), càng gần nhau bao nhiêu thì càng quý bấy nhiêu.
Những Vần Thông gần nhau đi với những vần sau đây:
ai với oai - ôi với ơi – ơi với nơi – au với âu – ay với ây, oay – ia với uya - ui với uôi – yêu với êu, iêu, iu - âm với ăm - ăn với ân - ong với ông hay ung - anh với oanh, ênh, inh, uynh - yên với iên, uyên...v.v...
Chúng ta nên cẩn thận khi dùng những chữ đồng âm dị nghĩa như Trường là ruột và Trường là dài, Trường là chỗ nhiều người tụ họp (hội trường, trường học...). Bên Hán tự thì mặt chữ khác nhau, bên quốc ngữ thì khuôn giống nhau. Như thế bên Hán cũng như bên Việt đều là những chữ đồng vận và đều là Chính Vận. Nhưng không nên dùng gần nhau vì dùng gần nhau sẽ kém nhạc, chẳng những kém mà còn hại là đằng khác:
Tầm phương bước lạc đến công trường
Thấy cảnh tình ai khỏi đoạn trường
Nghe thật không suông tai !
Ðối với những tiếng đồng âm dị nghĩa trong thuần Việt cũng thế. Nếu không để chúng ở một “đầu sông tương”, một ở “cuối sông Tương”, như trong Thăng Long Thành Hoài Cổ của bà Huyện Thanh Quan, thì ít ra phải để cách nhau ở một bến đò, nghĩa là có chen một vần khác ở giữa. Thí dụ như bài Cảm Tác (khuyết danh) sau đây:
Mấy chục năm qua gió bụi mờ
Tưởng rằng bớt đục hóa thêm nhơ
Mặt đành bôi mặt gà chung mẹ
Tay sẵn ngon tay gió phất cờ
Ruột đứt non sông chờ vận hội
Sầu vương cây cỏ đợi thời cơ
Ðêm đêm dưới nguyệt gươm mài hận
Quang phục quê hương lật thế cờ
Nguyên tắc xếp vần về bên loại vần Trắc cũng như bên vần Bằng. Xin cử một bài thơ vần trắc của Học Lạc làm mẫu:
Vành mâm xôi oản đề thằng Lạc
Nghĩ mình ti tiện không đài các
Văn chương vốn thiệt bợm mèo quào
Danh phận không ra cái cóc rác
Bởi thế bơ phờ thẹn núi sông
Dám đâu vúc vắc nhạo cô bác
Các thầy nếu chẳng biết lòng cho
Trong có ông thần ngoài cặp hạc
Thơ gieo vận trắc nghe không du dương, uyển chuyển nên làng thơ ít ham thích, nhiều thơ vần trắc lưu truyền từ xưa đến nay không được bao lăm. Do đó các nhà thi học bảo rằng Luật Thi chỉ dùng vần Bằng, những bài dùng vần Trắc dù cho đúng niêm luật vẫn thuộc về cổ thể.
Thơ vần Bằng mà dùng chính vận còn lưu truyền không ít. Xin trích một bài Mùa Nực Mặc Áo Bông của cụ Tú Xương làm mẫu:
Bức sốt nhưng mình vẫn áo bông
Tưởng rằng ốm dậy hoá ra không
Một tuồng rách rưới con như bố
Ba chữ nghêu ngao vợ chán chồng
Ðất biết bao giờ sang vận đỏ
Trời làm cho bỏ lúc chơi ngông
Gần chùa gần cảnh ta tu quách
Cửa phận quanh năm sẵn áo sồng
Bài thơ Tặng Vợ (Thương Vợ) của ông Tú sau đây vần gieo chính vận cũng thật là suông:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo xèo mặt nước buổi đò đông
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa, dám quản công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không
Vần gieo đã dòn, tình lại thiết tha, giọng lại dí dỏm ! “Năm con với một chồng” có hai ý. Một là sáu miệng ăn, hai là năm con đó do một ông chồng sanh ra chớ không vì “buôn bán ở mom sông” mà có nhiều con đâu ! Bà Tú mà nhận thấy cái hóm hỉnh này thì cũng đấm cho ông ba cái đấm lưng là ít. Rồi lại nói “có chồng hờ hững cũng như không”. Cũng như không mà có đến năm con, vậy nếu “không như không” thì bà Tú nuôi sao nổi ? Nội vẻ trào phúng kín đáo, và dễ thương đó, bài thơ cũng đủ có giá trị, huống còn tình tứ, còn văn chương mà vần chỉnh tề chiếm một phần quan trọng.
Chúng ta đọc thêm bài Thu Cảm của Tương An Quận Vương, một bài thơ gieo vần cũng thật khéo:
Bên cảnh bên tình khéo vấn vương
Sầu Thu đưa hạ chạnh trăm đường
Tiếng ve dày dặc nghe thêm thảm
Mặt nguyệt tròn hin ngó dễ thương
Vàng thếp giếng ngô sa lá gió
Bạc xuy dậu cúc nảy chồi sương
Sầu chong trắng đĩa không yên giấc
Lăm phá thành sầu đã hết phương
Xúc cảnh mà sinh tình, rồi mượn cảnh nói tình. Văn chương trang nhã, hàm súc. Không cần đi sâu vào nội dung chỉ đọc năm vần Vương, Ðường, Thương, Sương, Phương, cũng đã đủ khoái nhĩ. Thật là văn chương của bậc đại gia.
Xem những vần thơ được truyền tụng từ xưa tới nay, chúng ta nhận thấy các nhà thơ chân chính đều chú trọng sự gieo vần, và những bài thơ hay đều dùng chính vận.
________________________________________
Thơ Đường luật (Luật thi)
Tiền Mộc Yêm, tác giả sách Ðường Ẩm Thẩm Thể nói rằng: “Luật đây là sáu luật, là luật hòa hợp âm thanh. Luật thơ cũng giống như kỷ luật dụng binh, pháp luật hình án, nghiêm ngặt chặt chẽ, không được vi phạm”. Có thể giải thích thêm về thể cách của luật thi như sau:
a. Trong một câu, bằng trắc cần phải điều tiết.
b. Trong khoảng hai câu liền nhau, sự đối ngẫu cần phải khéo.
c. Trong một bài, âm thanh cần phải chọn sao cho có sự cao thấp, bổng trầm.
Tóm lại, ba điều kiện cần thiết của luật thi là niêm, luật và đối.
Về đối ngẫu, Lưu Hiệp đời Lục Triều, tác giả sách Văn Tâm Ðiêu Long, đã phân biệt bốn cách là: Ngôn đối, Sự đối, Chính đối và Phản đối. Ngôn đối là đối bằng lời suông. Sự đối là đối bằng điển cố. Hai câu mỗi câu trình bày một sự việc nhưng nói lên cùng một ý, là chính đối. Nếu hai sự việc đó trái ngược nhau, thì gọi là phản đối. Sự đối và phản đối khó làm hơn và có giá trị hơn là ngôn đối và chính đối.
Ðến thời Sơ Ðường, Thượng Quan Nghi phân biệt sáu cách đối là:
1. Chính danh đối, như càn khôn đối với nhật nguyệt.
2. Ðồng loại đối, như hoa diệp đối với thảo mao.
3. Liên châu đối, như tiêu tiêu đối với hách hách.
4. Song thanh đối, như hoàng hòe đối với lục liễu.
5. Ðiệp vận đối, như bàng hoàng đối với phóng khoáng.
6. Song nghĩ đối, như xuân thụ đối với thu trì.
(theo sách Thi uyển loại cách)
Một bài luật thi hoàn chỉnh dùng vào việc ứng chế, ứng thí, có thể định nghĩa là một bài thơ tám câu hoặc năm chữ ngũ ngôn luật thi hoặc bảy chữ thất ngôn luật thi, phải theo những qui tắc nhất định về niêm, luật; bốn câu 3,4 và 5,6 phải đối nhau từng đôi một.
Ngoài những bài có bốn câu giữa đối nhau, cũng có những bài hoặc sáu câu toàn đối, hoặc tám câu toàn đối.
Về vận, bài luật thi bắt buộc phải dùng vận chính (không được dùng vận thông, vận chuyển), căn cứ vào cuốn qui định vận bộ do triều đình ban hành. Ðời Ðường Huyền Tông có cuốn “Vận Anh”, cải biên theo cuốn “Thiết Vận” của Lục Pháp Ngôn đời Tùy, rồi cuốn “Ðường Vận” của Tôn Miễn, bổ khuyết sách trên.
Về việc dàn ý, bài luật thi vốn có bố cục như sau: các câu 1, 2 là khởi (khai), các câu 3, 4 là thừa, các câu 5, 6 là chuyển, các câu 7, 8 là hợp (hạp). Ngoài các câu đầu và kết ra, trong những câu giữa, muốn nói gì cũng được, không có lệ nhất định. Chỉ trong những khoa thi về sau, bài luật thi mới có bố cục chật hẹp (phá, thừa, thực, luận, kết).
Thơ Đường Luật
"Thể thơ Đường luật, về hình thức, các nhà thi học đều công nhận là toàn hảo. Nhưng nó chỉ thích hợp với những tình cảm đã được tiết chế, với những tâm hồn trầm tĩnh, với những người nặng về đời sống nội tâm. Nó không còn thích hợp với người hiện đại, bởi lòng luôn bị ngoại cảnh chi phối, rất ít khi được yên tĩnh, ung dung, nhịp lòng và nhịp thơ không thể hài hòa với nhau được thỏa đáng".
Thơ có nhiều thể, thể nào cũng có ưu điểm, khuyết điểm hoặc nhược điểm. Chúng ta chọn thể thơ Đường luật là vì thể thơ này thích hợp với tâm hồn của chúng ta. Thể thơ này đã bị các nhà Thơ Mới đả kích dữ dội ngót mười năm từ 1932 đến 1941. Bị công kích, đả đảo ngay khi thể thơ mới ra đời, đã bị một số danh gia, như Lý Thái Bạch, Hàn Sơn ... chỉ trích nặng lời, chớ chẳng đợi đến các thi nhân sanh sau hàng ngàn năm.
Bị đả kích mà vẫn tồn tại bởi có những ưu điểm. Trừ những kẻ thiên kiến, những người không độ lượng, không ai phủ nhận, không ai nỡ hủy diệt, trái lại còn rũ lòng ấp ủ nâng niu.
Tiền Mộc Yêm, tác giả sách Ðường Ẩm Thẩm Thể nói rằng: “Luật đây là sáu luật, là luật hòa hợp âm thanh. Luật thơ cũng giống như kỷ luật dụng binh, pháp luật hình án, nghiêm ngặt chặt chẽ, không được vi phạm”. Có thể giải thích thêm về thể cách của luật thi như sau:
a. Trong một câu, bằng trắc cần phải điều tiết.
b. Trong khoảng hai câu liền nhau, sự đối ngẫu cần phải khéo.
c. Trong một bài, âm thanh cần phải chọn sao cho có sự cao thấp, bổng trầm.
Tóm lại, ba điều kiện cần thiết của luật thi là niêm, luật và đối.
Về đối ngẫu, Lưu Hiệp đời Lục Triều, tác giả sách Văn Tâm Ðiêu Long, đã phân biệt bốn cách là: Ngôn đối, Sự đối, Chính đối và Phản đối. Ngôn đối là đối bằng lời suông. Sự đối là đối bằng điển cố. Hai câu mỗi câu trình bày một sự việc nhưng nói lên cùng một ý, là chính đối. Nếu hai sự việc đó trái ngược nhau, thì gọi là phản đối. Sự đối và phản đối khó làm hơn và có giá trị hơn là ngôn đối và chính đối.
Ðến thời Sơ Ðường, Thượng Quan Nghi phân biệt sáu cách đối là:
1. Chính danh đối, như càn khôn đối với nhật nguyệt.
2. Ðồng loại đối, như hoa diệp đối với thảo mao.
3. Liên châu đối, như tiêu tiêu đối với hách hách.
4. Song thanh đối, như hoàng hòe đối với lục liễu.
5. Ðiệp vận đối, như bàng hoàng đối với phóng khoáng.
6. Song nghĩ đối, như xuân thụ đối với thu trì.
(theo sách Thi uyển loại cách)
Một bài luật thi hoàn chỉnh dùng vào việc ứng chế, ứng thí, có thể định nghĩa là một bài thơ tám câu hoặc năm chữ ngũ ngôn luật thi hoặc bảy chữ thất ngôn luật thi, phải theo những qui tắc nhất định về niêm, luật; bốn câu 3,4 và 5,6 phải đối nhau từng đôi một.
Ngoài những bài có bốn câu giữa đối nhau, cũng có những bài hoặc sáu câu toàn đối, hoặc tám câu toàn đối.
Về vận, bài luật thi bắt buộc phải dùng vận chính (không được dùng vận thông, vận chuyển), căn cứ vào cuốn qui định vận bộ do triều đình ban hành. Ðời Ðường Huyền Tông có cuốn “Vận Anh”, cải biên theo cuốn “Thiết Vận” của Lục Pháp Ngôn đời Tùy, rồi cuốn “Ðường Vận” của Tôn Miễn, bổ khuyết sách trên.
Về việc dàn ý, bài luật thi vốn có bố cục như sau: các câu 1, 2 là khởi (khai), các câu 3, 4 là thừa, các câu 5, 6 là chuyển, các câu 7, 8 là hợp (hạp). Ngoài các câu đầu và kết ra, trong những câu giữa, muốn nói gì cũng được, không có lệ nhất định. Chỉ trong những khoa thi về sau, bài luật thi mới có bố cục chật hẹp (phá, thừa, thực, luận, kết).
Thơ Đường Luật
"Thể thơ Đường luật, về hình thức, các nhà thi học đều công nhận là toàn hảo. Nhưng nó chỉ thích hợp với những tình cảm đã được tiết chế, với những tâm hồn trầm tĩnh, với những người nặng về đời sống nội tâm. Nó không còn thích hợp với người hiện đại, bởi lòng luôn bị ngoại cảnh chi phối, rất ít khi được yên tĩnh, ung dung, nhịp lòng và nhịp thơ không thể hài hòa với nhau được thỏa đáng".
Thơ có nhiều thể, thể nào cũng có ưu điểm, khuyết điểm hoặc nhược điểm. Chúng ta chọn thể thơ Đường luật là vì thể thơ này thích hợp với tâm hồn của chúng ta. Thể thơ này đã bị các nhà Thơ Mới đả kích dữ dội ngót mười năm từ 1932 đến 1941. Bị công kích, đả đảo ngay khi thể thơ mới ra đời, đã bị một số danh gia, như Lý Thái Bạch, Hàn Sơn ... chỉ trích nặng lời, chớ chẳng đợi đến các thi nhân sanh sau hàng ngàn năm.
Bị đả kích mà vẫn tồn tại bởi có những ưu điểm. Trừ những kẻ thiên kiến, những người không độ lượng, không ai phủ nhận, không ai nỡ hủy diệt, trái lại còn rũ lòng ấp ủ nâng niu.
__________________________________________
Phép dụng tự
Để mở đầu phần Thi Pháp Thơ Đường Luật, hôm nay Hoàng Thứ Lang xin trích bàn về Phép dụng tự.
Thơ Đường thường dùng thực tự ít dùng hư tự.
Các nhà thi học đời sau thường nhận xét rằng: "Thơ mà dùng hư tự không hay". Đó là lời của Triệu Mạnh Phủ đời Nguyên. Người đồng thời cùng họ Triệu là Phạm Phanh nói thêm: "Thơ dùng nhiều thực tự thì mạnh, dùng nhiều hư tự thì yếu". Tạ Trăn cũng nói: "Dùng nhiều thực tự thì ý giản mà câu mạnh, dùng nhiều hư tự thì ý phồn mà lời yếu".
Xét kỹ thì Cổ Thi thường dùng hư tự, Luật Thi thường dùng thực tự. Đường nhân hay dùng thực tự, Tống nhân hay dùng hư tự.
Nói là chuyên dùng, ưa dùng ... là chuyên dùng nhiều, ưa dùng nhiều tự loại này hơn tự loại kia đó thôi. Hư tự dùng để đẩy đưa lời thơ, để gắn nối chữ này với chữ nọ. Dùng nhiều thực tự quá câu thơ thành nặng nề. Dùng nhiều hư tự quá câu thơ trở nên lỏng lẻo bên lời, cạn cợt bên ý. Phải sử dụng sao cho thích ứng, cho cân xứng. Như thế mới là diệu thủ.
Trong làng thơ Quốc âm, bà Huyện Thanh Quan hay dùng thực tự, bà Hồ Xuân Hương hay dùng hư tự. Tôn Thọ Tường thường dùng thực tự, Trần Tế Xương thường dùng hư tự.
Dùng nhiều thực tự thì thơ cô đọng chững chàng. Dùng hư tự vừa phải thì thơ nhẹ nhàng bay bướm. Xin dẫn chứng:
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
(Bà Huyện Thanh Quan)
Bát canh Quảng Võ ơn còn nhớ
Chén rượu Hồng Môn lệ khó ngăn
(Tôn Thọ Tường)
Tóc vướng hơi hương vườn thúy liễu
Lòng nương tiếng địch bến vi lô
(Tú Xương)
Sóng lớp phế hưng coi đã rộn
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau
(Bà Huyện Thanh Quan)
Nghi ngút tro tàn nền đạo nghĩa
Lờ mờ bụi đóng cửa trâm anh
(Tôn Thọ Tường)
Thà không trời đất không chi cả
Còn có non sông có lẽ nào
(Phan Sào Nam)
Chiếc bá buồn vì phận mỏng mênh
Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh
Lưng khoang tình nghĩa dường lai láng
Nửa mạn phong ba luống bập bềnh
Cầm lái mặc ai lăm đổ bến
Giang chèo thây khách rắp xuôi ghềnh
Ấy ai thăm ván căm lòng vậy
Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh
(Hồ Xuân Hương)
Đó là những câu dùng hư tự nhiều mà hay, nhất là câu thơ của Phan Sào Nam thật là hy hữu.
Dùng hư tự mà không khéo thì câu thơ thành non nớt, không truyền được cảm, mặc dù trong thơ có nhiều tình:
Trên đài hiu hắt ngọn đèn hoa
Gang tấc xem bằng mấy dặm xa
Một kiếp đã đành rằng để vậy
Chín trùng có thấu đến chăng là
Ỏi tai ngán nỗi đàn ve gảy
Tan mặt buồn tênh cái nhện sa
Ví biết thân này chi khó bấy
Quyền môn chen chúc chẳng bằng thà
Đó là một bài thơ được truyền tụng nhan đề CUNG OÁN.
Trong sách "Phép làm thơ" của Diên Hương chép là của Ôn Như Hầu. Theo Quách Tấn nhận xét thì không phải, vì bút pháp của Ôn Như Hầu rất già dặn, chải chuốt. Thơ trong Cung Oán Ngâm Khúc đã nổi danh là điêu luyện đến mức, và những câu sau đây, chỉ vài câu còn truyền tụng thôi, cũng đủ chứng minh rằng những câu thơ quá dễ dãi trên đây không phải là di sản của Ôn Như Hầu:
Cõi thế lênh đênh thuyền hạo kiếp
Lẽ trời lồng lộng võng huyền cơ
(Cảm tác - Ôn Như Hầu)
Man mác cảnh đâu ngoài vạn dặm
Bâng khuâng chuyện những mấy trăm năm
(Nghe ếch kêu - Ôn Như Hầu)
Lời thơ tự nhiên, lưu loát chớ không quê vụng như bài CUNG OÁN trên.
Bài CUNG OÁN có nhiều chữ dư, tức là những chữ không cần thiết, chỉ đem vào cho đủ vế mà thôi. Chúng ta nên tránh.
Chẳng những tránh dùng chữ thừa, mà còn tránh dùng một chữ đến 2 hoặc 3 lần, trừ khi cố ý nhấn mạnh, cố ý làm nổi bật một tứ thơ.
Lỗi bị trùng chữ rất thường xảy ra. Đến các bậc lão luyện vẫn nhiều khi vấp phải. Như Tố Như trong bài Vọng Phu Thạch.
Nhưng vì bài thơ có giá trị của viên ngọc liên thành, cho nên những vết nhỏ kia có thể bỏ qua. Tuy nhiên nếu viên ngọc toàn mỹ thì càng quý bội phần.
Tản Đà thỉnh thoảng cũng không tránh khỏi. Tiên sinh có bài THEO VOI ĂN BÃ MÍA cũng bị phạm lỗi này.
Chúng ta không phải như Tố Như, Tản Đà nên đừng bắt chước.
Huống nữa đã là lỗi thì dù là của bậc đại gia văn chương đi nữa cũng không nên lấy đó làm gương.
Tránh những chữ vô dụng, tránh những chữ trùng điệp.
Lại còn phải tránh:
1. Điệp thanh.
2. Điệp âm.
3. Điệp vận.
1. Điệp thanh:
Chữ thứ 4 và chữ thứ 7 trong các câu luật trắc vần bằng. Hai chữ ấy đều bình thanh thì thượng đoản hạ trường, hoặc ngược lại (thượng trường hạ đoản), chớ đừng dùng cả hai hoặc đều đoản hay đều trường.
Thí dụ 1 (cả hai đều cùng đoản bình thanh):
Thành Loa vừa thấy xây vua Thục
Ải Lạng quanh coi đuổi giặc Ngô
(Nguyễn Đỉnh Ngọc)
Câu thơ không có tiếng ngân, hơi thơ đọc xong là đứt không đủ sức đi vào lòng người đọc người nghe.
Tuy vậy vẫn còn đỡ hơn chữ thứ 4 và chữ thứ 7 đều cùng trường.
Thí dụ 2 (cả hai đều cùng trường bình thanh):
Nõn nà sắc nước nhờ ơn nước
Ngào ngạt hương trời ngát dặm trời
(Lê Thánh Tôn)
Câu thơ quặp ở giữa lưng như bụi chuối bị gió thổi gãy, âm hưởng nghe chìm lỉm như tiếng trống bị đùn da. Lỗi này nên tránh.
Thượng đoản hạ trường hoặc thượng trường hạ đoản thay đổi nhau thì câu thơ mới hài hảo.
Tuy nhiên nếu chữ thứ 4 có một trường bình thanh đứng kề thì câu thơ lại đọc nghe êm tai.
Thí dụ:
Thay mười tám triệu người ăn nói
Mở bốn ngàn năm mặt nước non
(Trần Tế Xương)
Mấy hàng tóc bạc từng dâu bể
Một tấm lòng son giải núi sông
(Đặng Xuân Bảng)
Nói tóm lại trong một câu Thất Ngôn thì có hoặc 4 tiếng bằng 3 tiếng trắc, hoặc 4 tiếng trắc 3 tiếng bằng thì những tiếng bằng trắc ấy phải có thanh độ khác nhau, câu thơ mới giàu âm nhạc. Trong mỗi câu ít nhất là phải có 1 tiếng trường bình thì nghe mới êm. Nhưng chớ nên dùng nhiều trường bình quá. Nhiều trường bình làm cho câu thơ yếu ớt, giọng trầm trầm khó nghe. Trong một câu Thất Ngôn có 4 tiếng bằng thì dùng 2 tiếng trường bình là vừa. Nếu một câu có 3 tiếng bằng mà dùng trường bình cả 3, hoặc 4 tiếng bằng mà dùng đến 3 trường bình thì câu thơ nghe không được du dương trầm bổng, mặc dù không phạm lỗi gì cả.
Thí dụ:
Trời làm đá nát lại vàng sôi
Thiên hạ trông mưa đứng lại ngồi
Ngày trước biết gì ăn với ngủ
Bây giờ lo cả nước cùng nôi
Trâu mừng ruộng nẻ cày không được
Cá sợ ao khô vượt cả rồi
Tình cảnh nhà ai nông nổi ấy
Quạt mo phe phẩy một mình tôi
(Trần Tế Xương)
Chúng ta nhận thấy câu đầu có 3 trường bình thanh trên 4, âm thanh nghe không được hài mỹ bằng những câu mà thanh độ điều hoà là các câu dưới.
2. Điệp âm:
Điệp thanh thì bằng vào thanh độ và chú trọng hai bình thanh là đoản bình và trường bình.
Về điệp âm thì lưu ý đến những tiếng cùng một âm căn, như ban bàn bán bản bãn bạn, thanh thành thánh thảnh thãnh thạnh ... những chữ mà một hay nhiều mẫu tự đứng trước hoặc đứng sau giống nhau, như ba bốn bữa, mây man mác, núi nặng nề ... bối rối mối, mây vây cây v.v... Những chữ đồng âm mà để gần nhau, nhất là ba hoặc bốn chữ cùng một lượt, thì nghe như nói cà lăm, nói lắp bắp, rất chướng tai (cacophonie).
Thí dụ:
Thượng toạ thiền trung sư sự sứ
Đình tiền túy tửu phụ phù phu
Đường về xóm cũ mây man mác
Nhớ đến người xưa nặng nỗi niềm
Gặp mặt cô nàng tôi bối rối
May nhờ lúc ấy tối rồi thôi
Chúng ta cùng đọc và nhận xét bài thơ sau đây:
Vô Đề
Tiếng gà bên gối tẻ tè te
Bóng ác trông ra loé loẽ loè
Non mấy trùng cao chon chót vót
Hoa năm sắc nở lỏe lòe loe
Chim tình bậu bạn kìa kia kĩa
Ong nghĩa vua tôi nhẹ nhẻ nhe
Danh lợi không màng ti tí tị
Ngủ trưa chưa dậy khỏe khòe khoe
Nguyễn Thượng Hiền
3. Điệp vận:
Tương tự như điệp thanh. Điệp vận ở chữ thứ 4 và chữ thứ 7.
Nhất là ở những câu luật trắc vần bằng.
Thí dụ:
Người hỡi Nghiêm Lăng có biết chăng
Lòng ta ý gã mấy ai bằng
Thôi thôi dại sớm thời khôn sớm
Nhắn kẻ chưa què chớ vội khoe
Hai đứa chung dòng nước Cửu Long
Thương nhau chẳng gặp nát tan lòng
Bẽ bàng lối cũ hoa chào gió
Thổn thức canh trường nhạn khóc sương
Quyên rầu rĩ tiếng chùng dây sắt
Nhạn lẻ loi đường thẹn bóng gương
Đứng chéo trông theo cảnh hắt heo
Đường đi thiên thẹo quán cheo leo
Khi dang thẳng cánh bù khi cúi
Chiến đứng không thôi lại chiến ngồi
Trai đu gối hạc khom khom cật
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng
Xiếu mai chi dám tình trăng gió
Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh
Thơ Thất Ngôn chẳng những tránh điệp vận ở những câu có vần, mà phải tránh cả ở những câu không vần nữa. Và chẳng những phải tránh ở chữ thứ 4 thứ 7, mà còn phải tránh cả ở những chữ thứ 2 và thứ 6 nữa.
Thí dụ:
Tình quê ấp ủ mùi hương cũ
Tin bạn mơ màng bóng nhạn xa
Nghĩ mình vốn cũng đa tình lắm
Mà dạ người thương chẳng tỏ tường
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Điệp vận ở chữ thứ 4 và thứ 7 gọi là Đại Vận.
Điệp vận ở chữ thứ 2 và thứ 6 gọi là Tiểu Vận.
______________________________________________________
Để mở đầu phần Thi Pháp Thơ Đường Luật, hôm nay Hoàng Thứ Lang xin trích bàn về Phép dụng tự.
Thơ Đường thường dùng thực tự ít dùng hư tự.
Các nhà thi học đời sau thường nhận xét rằng: "Thơ mà dùng hư tự không hay". Đó là lời của Triệu Mạnh Phủ đời Nguyên. Người đồng thời cùng họ Triệu là Phạm Phanh nói thêm: "Thơ dùng nhiều thực tự thì mạnh, dùng nhiều hư tự thì yếu". Tạ Trăn cũng nói: "Dùng nhiều thực tự thì ý giản mà câu mạnh, dùng nhiều hư tự thì ý phồn mà lời yếu".
Xét kỹ thì Cổ Thi thường dùng hư tự, Luật Thi thường dùng thực tự. Đường nhân hay dùng thực tự, Tống nhân hay dùng hư tự.
Nói là chuyên dùng, ưa dùng ... là chuyên dùng nhiều, ưa dùng nhiều tự loại này hơn tự loại kia đó thôi. Hư tự dùng để đẩy đưa lời thơ, để gắn nối chữ này với chữ nọ. Dùng nhiều thực tự quá câu thơ thành nặng nề. Dùng nhiều hư tự quá câu thơ trở nên lỏng lẻo bên lời, cạn cợt bên ý. Phải sử dụng sao cho thích ứng, cho cân xứng. Như thế mới là diệu thủ.
Trong làng thơ Quốc âm, bà Huyện Thanh Quan hay dùng thực tự, bà Hồ Xuân Hương hay dùng hư tự. Tôn Thọ Tường thường dùng thực tự, Trần Tế Xương thường dùng hư tự.
Dùng nhiều thực tự thì thơ cô đọng chững chàng. Dùng hư tự vừa phải thì thơ nhẹ nhàng bay bướm. Xin dẫn chứng:
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
(Bà Huyện Thanh Quan)
Bát canh Quảng Võ ơn còn nhớ
Chén rượu Hồng Môn lệ khó ngăn
(Tôn Thọ Tường)
Tóc vướng hơi hương vườn thúy liễu
Lòng nương tiếng địch bến vi lô
(Tú Xương)
Sóng lớp phế hưng coi đã rộn
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau
(Bà Huyện Thanh Quan)
Nghi ngút tro tàn nền đạo nghĩa
Lờ mờ bụi đóng cửa trâm anh
(Tôn Thọ Tường)
Thà không trời đất không chi cả
Còn có non sông có lẽ nào
(Phan Sào Nam)
Chiếc bá buồn vì phận mỏng mênh
Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh
Lưng khoang tình nghĩa dường lai láng
Nửa mạn phong ba luống bập bềnh
Cầm lái mặc ai lăm đổ bến
Giang chèo thây khách rắp xuôi ghềnh
Ấy ai thăm ván căm lòng vậy
Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh
(Hồ Xuân Hương)
Đó là những câu dùng hư tự nhiều mà hay, nhất là câu thơ của Phan Sào Nam thật là hy hữu.
Dùng hư tự mà không khéo thì câu thơ thành non nớt, không truyền được cảm, mặc dù trong thơ có nhiều tình:
Trên đài hiu hắt ngọn đèn hoa
Gang tấc xem bằng mấy dặm xa
Một kiếp đã đành rằng để vậy
Chín trùng có thấu đến chăng là
Ỏi tai ngán nỗi đàn ve gảy
Tan mặt buồn tênh cái nhện sa
Ví biết thân này chi khó bấy
Quyền môn chen chúc chẳng bằng thà
Đó là một bài thơ được truyền tụng nhan đề CUNG OÁN.
Trong sách "Phép làm thơ" của Diên Hương chép là của Ôn Như Hầu. Theo Quách Tấn nhận xét thì không phải, vì bút pháp của Ôn Như Hầu rất già dặn, chải chuốt. Thơ trong Cung Oán Ngâm Khúc đã nổi danh là điêu luyện đến mức, và những câu sau đây, chỉ vài câu còn truyền tụng thôi, cũng đủ chứng minh rằng những câu thơ quá dễ dãi trên đây không phải là di sản của Ôn Như Hầu:
Cõi thế lênh đênh thuyền hạo kiếp
Lẽ trời lồng lộng võng huyền cơ
(Cảm tác - Ôn Như Hầu)
Man mác cảnh đâu ngoài vạn dặm
Bâng khuâng chuyện những mấy trăm năm
(Nghe ếch kêu - Ôn Như Hầu)
Lời thơ tự nhiên, lưu loát chớ không quê vụng như bài CUNG OÁN trên.
Bài CUNG OÁN có nhiều chữ dư, tức là những chữ không cần thiết, chỉ đem vào cho đủ vế mà thôi. Chúng ta nên tránh.
Chẳng những tránh dùng chữ thừa, mà còn tránh dùng một chữ đến 2 hoặc 3 lần, trừ khi cố ý nhấn mạnh, cố ý làm nổi bật một tứ thơ.
Lỗi bị trùng chữ rất thường xảy ra. Đến các bậc lão luyện vẫn nhiều khi vấp phải. Như Tố Như trong bài Vọng Phu Thạch.
Nhưng vì bài thơ có giá trị của viên ngọc liên thành, cho nên những vết nhỏ kia có thể bỏ qua. Tuy nhiên nếu viên ngọc toàn mỹ thì càng quý bội phần.
Tản Đà thỉnh thoảng cũng không tránh khỏi. Tiên sinh có bài THEO VOI ĂN BÃ MÍA cũng bị phạm lỗi này.
Chúng ta không phải như Tố Như, Tản Đà nên đừng bắt chước.
Huống nữa đã là lỗi thì dù là của bậc đại gia văn chương đi nữa cũng không nên lấy đó làm gương.
Tránh những chữ vô dụng, tránh những chữ trùng điệp.
Lại còn phải tránh:
1. Điệp thanh.
2. Điệp âm.
3. Điệp vận.
1. Điệp thanh:
Chữ thứ 4 và chữ thứ 7 trong các câu luật trắc vần bằng. Hai chữ ấy đều bình thanh thì thượng đoản hạ trường, hoặc ngược lại (thượng trường hạ đoản), chớ đừng dùng cả hai hoặc đều đoản hay đều trường.
Thí dụ 1 (cả hai đều cùng đoản bình thanh):
Thành Loa vừa thấy xây vua Thục
Ải Lạng quanh coi đuổi giặc Ngô
(Nguyễn Đỉnh Ngọc)
Câu thơ không có tiếng ngân, hơi thơ đọc xong là đứt không đủ sức đi vào lòng người đọc người nghe.
Tuy vậy vẫn còn đỡ hơn chữ thứ 4 và chữ thứ 7 đều cùng trường.
Thí dụ 2 (cả hai đều cùng trường bình thanh):
Nõn nà sắc nước nhờ ơn nước
Ngào ngạt hương trời ngát dặm trời
(Lê Thánh Tôn)
Câu thơ quặp ở giữa lưng như bụi chuối bị gió thổi gãy, âm hưởng nghe chìm lỉm như tiếng trống bị đùn da. Lỗi này nên tránh.
Thượng đoản hạ trường hoặc thượng trường hạ đoản thay đổi nhau thì câu thơ mới hài hảo.
Tuy nhiên nếu chữ thứ 4 có một trường bình thanh đứng kề thì câu thơ lại đọc nghe êm tai.
Thí dụ:
Thay mười tám triệu người ăn nói
Mở bốn ngàn năm mặt nước non
(Trần Tế Xương)
Mấy hàng tóc bạc từng dâu bể
Một tấm lòng son giải núi sông
(Đặng Xuân Bảng)
Nói tóm lại trong một câu Thất Ngôn thì có hoặc 4 tiếng bằng 3 tiếng trắc, hoặc 4 tiếng trắc 3 tiếng bằng thì những tiếng bằng trắc ấy phải có thanh độ khác nhau, câu thơ mới giàu âm nhạc. Trong mỗi câu ít nhất là phải có 1 tiếng trường bình thì nghe mới êm. Nhưng chớ nên dùng nhiều trường bình quá. Nhiều trường bình làm cho câu thơ yếu ớt, giọng trầm trầm khó nghe. Trong một câu Thất Ngôn có 4 tiếng bằng thì dùng 2 tiếng trường bình là vừa. Nếu một câu có 3 tiếng bằng mà dùng trường bình cả 3, hoặc 4 tiếng bằng mà dùng đến 3 trường bình thì câu thơ nghe không được du dương trầm bổng, mặc dù không phạm lỗi gì cả.
Thí dụ:
Trời làm đá nát lại vàng sôi
Thiên hạ trông mưa đứng lại ngồi
Ngày trước biết gì ăn với ngủ
Bây giờ lo cả nước cùng nôi
Trâu mừng ruộng nẻ cày không được
Cá sợ ao khô vượt cả rồi
Tình cảnh nhà ai nông nổi ấy
Quạt mo phe phẩy một mình tôi
(Trần Tế Xương)
Chúng ta nhận thấy câu đầu có 3 trường bình thanh trên 4, âm thanh nghe không được hài mỹ bằng những câu mà thanh độ điều hoà là các câu dưới.
2. Điệp âm:
Điệp thanh thì bằng vào thanh độ và chú trọng hai bình thanh là đoản bình và trường bình.
Về điệp âm thì lưu ý đến những tiếng cùng một âm căn, như ban bàn bán bản bãn bạn, thanh thành thánh thảnh thãnh thạnh ... những chữ mà một hay nhiều mẫu tự đứng trước hoặc đứng sau giống nhau, như ba bốn bữa, mây man mác, núi nặng nề ... bối rối mối, mây vây cây v.v... Những chữ đồng âm mà để gần nhau, nhất là ba hoặc bốn chữ cùng một lượt, thì nghe như nói cà lăm, nói lắp bắp, rất chướng tai (cacophonie).
Thí dụ:
Thượng toạ thiền trung sư sự sứ
Đình tiền túy tửu phụ phù phu
Đường về xóm cũ mây man mác
Nhớ đến người xưa nặng nỗi niềm
Gặp mặt cô nàng tôi bối rối
May nhờ lúc ấy tối rồi thôi
Chúng ta cùng đọc và nhận xét bài thơ sau đây:
Vô Đề
Tiếng gà bên gối tẻ tè te
Bóng ác trông ra loé loẽ loè
Non mấy trùng cao chon chót vót
Hoa năm sắc nở lỏe lòe loe
Chim tình bậu bạn kìa kia kĩa
Ong nghĩa vua tôi nhẹ nhẻ nhe
Danh lợi không màng ti tí tị
Ngủ trưa chưa dậy khỏe khòe khoe
Nguyễn Thượng Hiền
3. Điệp vận:
Tương tự như điệp thanh. Điệp vận ở chữ thứ 4 và chữ thứ 7.
Nhất là ở những câu luật trắc vần bằng.
Thí dụ:
Người hỡi Nghiêm Lăng có biết chăng
Lòng ta ý gã mấy ai bằng
Thôi thôi dại sớm thời khôn sớm
Nhắn kẻ chưa què chớ vội khoe
Hai đứa chung dòng nước Cửu Long
Thương nhau chẳng gặp nát tan lòng
Bẽ bàng lối cũ hoa chào gió
Thổn thức canh trường nhạn khóc sương
Quyên rầu rĩ tiếng chùng dây sắt
Nhạn lẻ loi đường thẹn bóng gương
Đứng chéo trông theo cảnh hắt heo
Đường đi thiên thẹo quán cheo leo
Khi dang thẳng cánh bù khi cúi
Chiến đứng không thôi lại chiến ngồi
Trai đu gối hạc khom khom cật
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng
Xiếu mai chi dám tình trăng gió
Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh
Thơ Thất Ngôn chẳng những tránh điệp vận ở những câu có vần, mà phải tránh cả ở những câu không vần nữa. Và chẳng những phải tránh ở chữ thứ 4 thứ 7, mà còn phải tránh cả ở những chữ thứ 2 và thứ 6 nữa.
Thí dụ:
Tình quê ấp ủ mùi hương cũ
Tin bạn mơ màng bóng nhạn xa
Nghĩ mình vốn cũng đa tình lắm
Mà dạ người thương chẳng tỏ tường
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Điệp vận ở chữ thứ 4 và thứ 7 gọi là Đại Vận.
Điệp vận ở chữ thứ 2 và thứ 6 gọi là Tiểu Vận.
______________________________________________________
Cả hai đều là bệnh của thơ.
Những điểm này sẽ được nói thêm trong phần Thi Bệnh sắp tới.
_______________________________________________________
THI BỆNH
Từ đời Tấn trở về trước, làng thơ không nói đến thi bệnh mặc dù bệnh đã có từ xưa. Đến đời Lục Triều (221-581) sang đời Tùy (581-621), các thi nhân gây ra phong trào nghiên cứu thanh vận, Thẩm Ước đề xướng thuyết Tứ Thanh, Bát Bệnh, được phần đông tao khách hưởng ứng, đem áp dụng vào thơ Ngũ Ngôn.
Ngũ Ngôn ở đây là Ngũ Ngôn cổ thể.
Ngũ Ngôn và Thất Ngôn Luật Thi đến đời Đường, nghĩa là gần nửa thế kỷ sau mới sản xuất.
Cho nên tám bệnh của Thẩm Ước đưa ra không đem áp dụng vào thơ Ngũ Ngôn và Thất Ngôn Đường Luật được. Mà chúng ta giảng cứu đây là giảng cứu về Luật Thi. Tuy vậy tưởng chúng ta cũng nên biết qua để làm giàu thêm cho cái vốn học vấn.
Trước hết chúng ta nên biết rằng tám bệnh kia không phải Thẩm Ước đặt ra. Chính cũng như những bệnh dịch hạch dịch tả, bệnh phong bệnh lao ... ở ngoài đời. Những thi bệnh đã có trong thơ từ khi mới có thơ và thơ càng phát triển, thi bệnh càng sanh thêm nhiều. Thẩm Ước chỉ có công phát hiện và đặt cho mỗi bệnh cái tên. Để cho khách tri âm dễ nhận thấy bệnh, họ Thẩm mới giải rõ bệnh lý, mới tả rõ bệnh trạng, mới thuyết rõ bệnh căn.
Nhận thấy được bệnh rồi thì tránh bệnh hoặc trị bệnh không đến nỗi khó khăn.
Sau khi Thi luật được điển chế thì phần nhiều bệnh của Thơ Ngũ Ngôn không còn chỗ để xâm nhập. Song những bệnh này bị diệt trừ thì những bệnh khác lại sanh sản. Bởi hễ đời còn người, người dẫu đã văn minh tiến bộ đến đâu, vẫn còn bệnh; thì thơ còn chữ, dù chữ đã tinh luyện đến đâu, cũng vẫn còn bệnh như đời. Cho nên khách làng thơ Đường luật vẫn dùng những bệnh danh của Thẩm Ước để gọi những bệnh mới sanh trong thơ Cận Thể và tương tợ với những bệnh trong thơ Cổ Thể. Danh tuy đồng nhưng bệnh căn và bệnh trạng đều khác. Để bớt rườm rà, ở đây chỉ nói về những bệnh trong Thất Ngôn Luật Thi.
Tám bệnh danh thường gặp của Thất Ngôn Luật Thi là:
1. Bệnh Bình Đầu
2. Bệnh Thượng Vỹ
3. Bệnh Phong Yêu
4. Bệnh Hạc Tất
5. Bệnh Bàng Nữu
6. Bệnh Chánh Nữu
7. Bệnh Đại Vận
8. Bệnh Tiểu Vận
1. BỆNH BÌNH ĐẦU:
Bệnh này nằm ở 2 hoặc 3 chữ đầu của 2 liên đứng kề nhau, tức là 2 hay 3 chữ đầu của 4 câu: 4 câu trước hoặc 4 câu giữa hoặc 4 câu sau trong bài bát cú.
Hai hay 3 chữ đầu của 4 câu đứng liền nhau không được cùng một tự loại. Nếu cùng một tự loại thì đầu 4 câu trông bằng nhau như để thước mà xắn, nên gọi là Bình Đầu.
Bệnh bình đầu ở Ngũ Ngôn có thể do trùng thanh độ mà có.
Bệnh bình đầu ở Thất Ngôn Luật Thi do đồng tự loại mà ra.
Cổ thể (thơ cổ phong) thì chỉ 2 câu liền nhau đã gây ra thi bệnh. Cận thể (thơ Đường luật) phải 4 câu liền nhau mới có thể sinh ra bệnh. Bệnh căn và bệnh trạng hai bên khác nhau là thế.
Các bệnh khác đại để cũng vậy.
Xin cử một vài thí dụ về bệnh Bình Đầu:
1.
HOA SEN
Nắng sưởi ao xanh nắng ửng hường
Bèo lây cốt cách súng lây hương
Sắc ngời Ngân hán thô màu gấm
Bóng dợn Thiềm cung thẹn dáng gương
Ơn nước nặng mang tình uỷ ký
Lòng tơ riêng vướng nợ văn chương
Non xưa sực nhớ hồi ly biệt
Tiếng hạc canh dài mộng vấn vương
Liên Tâm
2.
LĂNG MAI XUÂN THƯỞNG
Lưng ngựa ba đông dặm chiến trường
Hoành sơn đá chất nghĩa Cần Vương
Làu làu bóng rạng gương Hoàng Nguyễn
Vọi vọi nền cao tiết Vũ Trương
Ôm ấp hùng tâm bia chuốt ngọc
Giữ gìn trung cốt đất sanh hương
Trăng lên ba biểu chờ tin hạc
Một nén tinh thành gió bốn phương
Tú Xương
3.
CUNG OÁN (1)
Trước ốc huỳnh hôn đứng vẩn vơ
Thêm ngao ngán cảnh chạnh lòng thơ
Hài hoa bước khẽ chiều tha thiết
Mắt phụng trông chừng luống ngẩn ngơ
Trướng bạc những khi hơi bích lọt
Nhà vàng bao thuở thoả ân thừa
Âm thầm luống chịu mình u bế
Đừng trách đời Đường hạn chẳng mưa
Khuyết danh
4.
CUNG OÁN (2)
Hay cợt người chi một chữ tình
Thôi đừng dở rối lại buồn tênh
Giọng rầu rĩ dế càng đưa tiếng
Mặt ủ ê hoa khéo đạm hình
Gió phảng phất chiều kề trước giại
Nguyệt mờ mệt vẻ hé bên mành
Đến Dương bao nả hơi xuân bén
Đành để riêng ai chịu bất bình
Khuyết danh
2. BỆNH THƯỢNG VĨ
Bệnh Thượng Vĩ là bệnh mà 3 chữ sau cùng của 2 liên đứng kề nhau, nghĩa là 3 chữ sau của 4 câu đứng liền nhau, hoặc 4 câu đầu, hoặc 4 câu giữa, hoặc 4 câu cuối. Kỵ nhất là chữ thứ 5. Nếu 3 chữ cuối của 4 câu, nhất là chữ thứ 5, chữ làm thi nhãn cho câu thơ, đồng tự loại, thì câu thơ như chỏng đuôi lên cao. Do đó mà gọi là bệnh Thượng Vĩ, tức là bệnh Chỏng Đuôi.
Thí dụ:
KHÓC TRƯƠNG QUỲNH NHƯ
Trời xanh cao thẳm mấy từng khơi
Nỡ để duyên ai luống thiệt thòi
Buồn đốt lò vàng hương nhạt khói
Sầu nâng chén cúc rượu không hơi
Lầu tây nguyệt gác mây lồng bóng
Ải bắc hồng sang bể tuyệt vời
Một khối chung tình tan mấy mảnh
Suối vàng ai cũng thấu lòng ai
Phạm Thái
VIẾNG THÀNH HUẾ SAU NGÀY ĐÌNH CHIẾN
Nắng nhạt chiều thu quạ rộn ràng
Sầu vương lau lách lạnh thành hoang
Tro tàn thư viện duyên ngao ngán
Đá nát hoàng cung bước ngỡ ngàng
Gầy gọ gió sương tùng Thế miếu
Bẽ bàng trăng nước trúc Hương giang
Trông vời Thiên mụ mây man mác
Lơ lửng chuông hôm rụng tiếng vàng
Tú Xương
Những chữ ngao ngán, ngỡ ngàng, và Thế miếu, Hương giang tuy không đồng tự loại (một bên là trạng từ một bên là danh từ riêng) nhưng đều là tiếng đôi (từ kép), cho nên đứng sau tiếng Duyên, Bước, Tùng, Trúc, đều là danh từ chung, trở thành bộ ba gây ra bệnh Thượng Vĩ.
Nếu chữ thứ 5 tức chữ thi nhãn, của Hạm liên và của Cảnh liên không đồng tự loại, thì dù 2 chữ sau của cả 4 câu đều một tự loại cũng không bị bệnh. Thí dụ 4 câu giữa bài Thăng Long Thành Hoài Cổ của Bà Huyện Thanh Quan, nhờ nhãn tự của Hạm liên là danh từ, nhãn tự của Cảnh liên là giời từ, nên tránh được bệnh.
Bệnh Thượng Vĩ xưa nay thường bị vấp. Trong những tác phẩm lưu truyền của các danh gia, chúng ta thường gặp những bài bị bệnh. Bị bệnh là vì thi nhân muốn cho câu thơ được già dặn hay dùng thực tự làm thi nhãn và quá chú trọng ở nhãn tự, nhiều khi quên nghĩ đến bệnh. Lúc đã nhận thấy lại tiếc chữ vừa ý, không muốn thay đổi.
Cho nên muốn tránh bệnh Thượng Vĩ, chúng ta nên để ý đến chữ thứ 5 của 4 câu đi liền nhau, đừng cho trùng tự loại.
Khắc Khoải
Đã biết tình xa mộng khó đầy
Mà nào tĩnh giấc giữa cơn say
Đêm hiu hắt dệt làn sương mỏng
Mắt ngẩn ngơ trông ánh nguyệt gầy
Cuối nẻo hoa tàn lay lắt rụng
Bên trời lá úa xạc xào bay
Rồi đây lặng lẽ nhìn phương ấy
Gửi gió niềm thương tụ mỗi ngày
3. BỆNH PHONG YÊU
Bệnh sanh ra do chữ thứ 2 và chữ thứ 7 trùng thanh độ.
Thí dụ:
Để bụng phải đeo điều nhẹ nặng
Ôm tai mặc quách tiếng chê khen
(Trần Tế Xương)
In sáo vẽ cho thằng mặt trắng
Bẻ cò tính lại cái lương vàng
(Nguyễn Khuyến)
Văn tự viết cho thiên hạ giữ
Tính danh ghi để thế gian coi
(Quán Vinh)
Cầm lái mặc ai lăm đỗ bến
Giong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh
(Hồ Xuân Hương)
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa
(Bà Huyện Thanh Quan)
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
(Bà Huyện Thanh Quan)
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thắm thoát mấy tinh sương
(Bà Huyện Thanh Quan)
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
(Nguyễn Khuyến)
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
(Nguyễn Khuyến)
Bệnh Phong Yêu Hạc Tất trong thơ Thất Ngôn không mấy ai lưu tâm, trừ những người chuộng thanh vận, vì chỉ là "bệnh ngoài da" không có ảnh hưởng bao lăm đến thi nhạc. Như đọc những câu thượng dẫn, chúng ta nghe không đến nỗi chói tai. Và những câu mà chữ thứ 2 và chữ thứ 7 đều là đoản bình thanh, nếu đặt trước chữ 2 hay chữ 7 một chữ trường bình thanh, thì thanh âm của câu thơ trở nên hoàn toàn hài mỹ.
Thí dụ:
Bình tước mặc tranh treo trước án
Cầu ô sẵn nhịp bắc ngang sông
(Trần Tế Xương)
Gương nọ toan soi cho đẹp mặt
Phấn kia không lẽ nỡ dồi chân
(Trần Tế Xương)
Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng
Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông
Tôn Thọ Tường)
Bệnh tuy nhẹ, nhưng nếu tránh được thì càng hay, chúng ta nên tránh nhất là trong những câu có vần. Hễ chữ thứ 7, chữ hạ vần, là đoản bình thanh, thì chữ thứ 2 nên dùng trường bình thanh. Hễ chữ thứ 7 là trường thì chữ thứ 2 nên đoản. Đừng nên dùng trường thanh cả hai nơi. Nếu hai nơi đều là đoản thanh thì nên dùng một trường bình thanh ở trước nơi nầy hoặc nơi kia, như trên đã nói. Như thế là ổn. Trường bình thanh cũng cứu được khỏi bệnh trong những câu lẻ mà chữ 2 và chữ 7 trùng thanh độ về Thượng, Khứ, Nhập, như câu "Cầm lái... bến".
4. BỆNH HẠC TẤT
Bệnh hạc tất sanh ra ngay trong từng câu thơ Thất Ngôn.
Bệnh danh xuất phát từ chữ thứ 4, là chữ mà làng thơ gọi là hạc tất nghĩa là đầu gối chim hạc.
Chữ thứ 4 và chữ thứ 7 trùng thanh độ là bị bệnh hạc tất.
Thí dụ:
Nghe lời phi pháp tai làm điếc
Nghĩ nỗi nhân tình ruột lại đầy
(Khuyết danh)
Nghĩ câu năm nọ như ngày nọ
Nhớ đến bao giờ khóc bấy giờ
(Cựu thần nhà Lê)
Đã từng tắm gội ơn mưa móc
Cũng phải xênh xang hội gió mây
(Nguyễn Công Trứ)
Trăng thanh gió mát là tương thức
Nước biếc non xanh ấy cố tri
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Đầu trò tiếp khách trầu không có
Bác đến chơi đây ta với ta
(Nguyễn Khuyến)
Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
(Nguyễn Khuyến)
Bệnh hạc tất cổ nhân cũng ít lưu ý. Có nhiều câu đọc nghe chướng tai mà vì chuộng ý thú hơn thanh vận, nên được nhiều người đề cao. Như câu thơ của Đỗ Phủ:
Ba phiêu cô mễ trầm vân hắc
Lộ lãnh liên phòng trụy phấn hồng
(Sóng trôi lúa cô mễ làm chìm sắc đen của mây
Móc lạnh gương sen làm rụng màu hồng của phấn)
Câu "Lộ lãnh liên phòng trụy phấn hồng" cũng như câu "Nhớ đến bao giờ khóc bấy giờ", giọng thơ nghe gãy cúp. Thế mà Diệp Mộng Đắc đời Tống khen câu thơ của Đỗ Phủ là "Hàm cái càn khôn" nghĩa là ngậm che cả trời đất, và Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu khen câu thơ của cựu thần nhà Lê là "ảm đạm trầm thống, văn chương do ở chí tình, khiến người sau mấy trăm năm, còn muốn chung một giọt nước mắt".
Câu của Nguyễn Bỉnh Khiêm "Trăng thanh gió mát... Nước biếc non xanh...", đọc nghe như bị ngút hơi mà Tản Đà cũng khen là "Tuy chưa thần tiên, cũng đã thanh cao đến tuyệt vậy".
Diệp Mộng Đắc và Tản Đà nặng về tánh tình mà nhẹ về thanh điệu. Nếu là những người theo chủ trương âm nhạc trước hết thì mấy câu kia chắc không lọt tai Chu Lang.
Và cũng như bệnh phong yêu, bệnh hạc tất do 2 chữ thuộc đoản bình thanh gây nên, thì chỉ đưa vào câu thơ một chữ trường bình thanh thay cho chữ thứ nhứt hoặc chữ thứ ba hoặc chữ thứ bảy thì nguyên nhân phát sinh ra bệnh bị hóa giải ngay.
Phong yêu và hạc tất là hai bệnh thuộc về thanh. Trong bài nói về điệp thanh khuyên chúng ta tránh phạm lỗi "điệp thanh" chính là để tránh hai bệnh phong yêu và hạc tất nầy đó.
Trong bài nói về "điệp âm" và "điệp vận" khuyên nên tránh phạm hai lỗi nầy là để khỏi phải mắc những bệnh Bằng Nữu, Chánh Nữu là bệnh điệp âm và đại vận. Tiểu vận là bệnh điệp vận. Khuyên tránh trước rồi mới nói bệnh sau là cốt ý tránh gieo ấn tượng về bệnh mà xưa nay đã bị nhiều người đả kích.
Trong khi nói về bệnh, những điều đã nói được lập đi lập lại, hoặc khai triển thêm những điều mới nói đại lược, để cho các bạn thêm thấm nhuần, hầu có thể đi đến diệu xử của thanh vận.
_____________________________________Ghi chú: Trong sách có nói các đại danh gia thi sĩ cũng có người làm thơ sai luật thất đối phạm thi bịnh. Nhưng chúng ta không nên thấy họ là đại danh gia thi sĩ mà nghĩ rằng họ hoàn toàn đúng rồi bắt chước theo, rốt cuộc chúng ta cũng bị sai !
_____________________________________
Soksaray Blog's - 15/05/2015
Soksaray Julimimosa .
_____________________________________
Những điểm này sẽ được nói thêm trong phần Thi Bệnh sắp tới.
_______________________________________________________
THI BỆNH
Từ đời Tấn trở về trước, làng thơ không nói đến thi bệnh mặc dù bệnh đã có từ xưa. Đến đời Lục Triều (221-581) sang đời Tùy (581-621), các thi nhân gây ra phong trào nghiên cứu thanh vận, Thẩm Ước đề xướng thuyết Tứ Thanh, Bát Bệnh, được phần đông tao khách hưởng ứng, đem áp dụng vào thơ Ngũ Ngôn.
Ngũ Ngôn ở đây là Ngũ Ngôn cổ thể.
Ngũ Ngôn và Thất Ngôn Luật Thi đến đời Đường, nghĩa là gần nửa thế kỷ sau mới sản xuất.
Cho nên tám bệnh của Thẩm Ước đưa ra không đem áp dụng vào thơ Ngũ Ngôn và Thất Ngôn Đường Luật được. Mà chúng ta giảng cứu đây là giảng cứu về Luật Thi. Tuy vậy tưởng chúng ta cũng nên biết qua để làm giàu thêm cho cái vốn học vấn.
Trước hết chúng ta nên biết rằng tám bệnh kia không phải Thẩm Ước đặt ra. Chính cũng như những bệnh dịch hạch dịch tả, bệnh phong bệnh lao ... ở ngoài đời. Những thi bệnh đã có trong thơ từ khi mới có thơ và thơ càng phát triển, thi bệnh càng sanh thêm nhiều. Thẩm Ước chỉ có công phát hiện và đặt cho mỗi bệnh cái tên. Để cho khách tri âm dễ nhận thấy bệnh, họ Thẩm mới giải rõ bệnh lý, mới tả rõ bệnh trạng, mới thuyết rõ bệnh căn.
Nhận thấy được bệnh rồi thì tránh bệnh hoặc trị bệnh không đến nỗi khó khăn.
Sau khi Thi luật được điển chế thì phần nhiều bệnh của Thơ Ngũ Ngôn không còn chỗ để xâm nhập. Song những bệnh này bị diệt trừ thì những bệnh khác lại sanh sản. Bởi hễ đời còn người, người dẫu đã văn minh tiến bộ đến đâu, vẫn còn bệnh; thì thơ còn chữ, dù chữ đã tinh luyện đến đâu, cũng vẫn còn bệnh như đời. Cho nên khách làng thơ Đường luật vẫn dùng những bệnh danh của Thẩm Ước để gọi những bệnh mới sanh trong thơ Cận Thể và tương tợ với những bệnh trong thơ Cổ Thể. Danh tuy đồng nhưng bệnh căn và bệnh trạng đều khác. Để bớt rườm rà, ở đây chỉ nói về những bệnh trong Thất Ngôn Luật Thi.
Tám bệnh danh thường gặp của Thất Ngôn Luật Thi là:
1. Bệnh Bình Đầu
2. Bệnh Thượng Vỹ
3. Bệnh Phong Yêu
4. Bệnh Hạc Tất
5. Bệnh Bàng Nữu
6. Bệnh Chánh Nữu
7. Bệnh Đại Vận
8. Bệnh Tiểu Vận
1. BỆNH BÌNH ĐẦU:
Bệnh này nằm ở 2 hoặc 3 chữ đầu của 2 liên đứng kề nhau, tức là 2 hay 3 chữ đầu của 4 câu: 4 câu trước hoặc 4 câu giữa hoặc 4 câu sau trong bài bát cú.
Hai hay 3 chữ đầu của 4 câu đứng liền nhau không được cùng một tự loại. Nếu cùng một tự loại thì đầu 4 câu trông bằng nhau như để thước mà xắn, nên gọi là Bình Đầu.
Bệnh bình đầu ở Ngũ Ngôn có thể do trùng thanh độ mà có.
Bệnh bình đầu ở Thất Ngôn Luật Thi do đồng tự loại mà ra.
Cổ thể (thơ cổ phong) thì chỉ 2 câu liền nhau đã gây ra thi bệnh. Cận thể (thơ Đường luật) phải 4 câu liền nhau mới có thể sinh ra bệnh. Bệnh căn và bệnh trạng hai bên khác nhau là thế.
Các bệnh khác đại để cũng vậy.
Xin cử một vài thí dụ về bệnh Bình Đầu:
1.
HOA SEN
Nắng sưởi ao xanh nắng ửng hường
Bèo lây cốt cách súng lây hương
Sắc ngời Ngân hán thô màu gấm
Bóng dợn Thiềm cung thẹn dáng gương
Ơn nước nặng mang tình uỷ ký
Lòng tơ riêng vướng nợ văn chương
Non xưa sực nhớ hồi ly biệt
Tiếng hạc canh dài mộng vấn vương
Liên Tâm
2.
LĂNG MAI XUÂN THƯỞNG
Lưng ngựa ba đông dặm chiến trường
Hoành sơn đá chất nghĩa Cần Vương
Làu làu bóng rạng gương Hoàng Nguyễn
Vọi vọi nền cao tiết Vũ Trương
Ôm ấp hùng tâm bia chuốt ngọc
Giữ gìn trung cốt đất sanh hương
Trăng lên ba biểu chờ tin hạc
Một nén tinh thành gió bốn phương
Tú Xương
3.
CUNG OÁN (1)
Trước ốc huỳnh hôn đứng vẩn vơ
Thêm ngao ngán cảnh chạnh lòng thơ
Hài hoa bước khẽ chiều tha thiết
Mắt phụng trông chừng luống ngẩn ngơ
Trướng bạc những khi hơi bích lọt
Nhà vàng bao thuở thoả ân thừa
Âm thầm luống chịu mình u bế
Đừng trách đời Đường hạn chẳng mưa
Khuyết danh
4.
CUNG OÁN (2)
Hay cợt người chi một chữ tình
Thôi đừng dở rối lại buồn tênh
Giọng rầu rĩ dế càng đưa tiếng
Mặt ủ ê hoa khéo đạm hình
Gió phảng phất chiều kề trước giại
Nguyệt mờ mệt vẻ hé bên mành
Đến Dương bao nả hơi xuân bén
Đành để riêng ai chịu bất bình
Khuyết danh
2. BỆNH THƯỢNG VĨ
Bệnh Thượng Vĩ là bệnh mà 3 chữ sau cùng của 2 liên đứng kề nhau, nghĩa là 3 chữ sau của 4 câu đứng liền nhau, hoặc 4 câu đầu, hoặc 4 câu giữa, hoặc 4 câu cuối. Kỵ nhất là chữ thứ 5. Nếu 3 chữ cuối của 4 câu, nhất là chữ thứ 5, chữ làm thi nhãn cho câu thơ, đồng tự loại, thì câu thơ như chỏng đuôi lên cao. Do đó mà gọi là bệnh Thượng Vĩ, tức là bệnh Chỏng Đuôi.
Thí dụ:
KHÓC TRƯƠNG QUỲNH NHƯ
Trời xanh cao thẳm mấy từng khơi
Nỡ để duyên ai luống thiệt thòi
Buồn đốt lò vàng hương nhạt khói
Sầu nâng chén cúc rượu không hơi
Lầu tây nguyệt gác mây lồng bóng
Ải bắc hồng sang bể tuyệt vời
Một khối chung tình tan mấy mảnh
Suối vàng ai cũng thấu lòng ai
Phạm Thái
VIẾNG THÀNH HUẾ SAU NGÀY ĐÌNH CHIẾN
Nắng nhạt chiều thu quạ rộn ràng
Sầu vương lau lách lạnh thành hoang
Tro tàn thư viện duyên ngao ngán
Đá nát hoàng cung bước ngỡ ngàng
Gầy gọ gió sương tùng Thế miếu
Bẽ bàng trăng nước trúc Hương giang
Trông vời Thiên mụ mây man mác
Lơ lửng chuông hôm rụng tiếng vàng
Tú Xương
Những chữ ngao ngán, ngỡ ngàng, và Thế miếu, Hương giang tuy không đồng tự loại (một bên là trạng từ một bên là danh từ riêng) nhưng đều là tiếng đôi (từ kép), cho nên đứng sau tiếng Duyên, Bước, Tùng, Trúc, đều là danh từ chung, trở thành bộ ba gây ra bệnh Thượng Vĩ.
Nếu chữ thứ 5 tức chữ thi nhãn, của Hạm liên và của Cảnh liên không đồng tự loại, thì dù 2 chữ sau của cả 4 câu đều một tự loại cũng không bị bệnh. Thí dụ 4 câu giữa bài Thăng Long Thành Hoài Cổ của Bà Huyện Thanh Quan, nhờ nhãn tự của Hạm liên là danh từ, nhãn tự của Cảnh liên là giời từ, nên tránh được bệnh.
Bệnh Thượng Vĩ xưa nay thường bị vấp. Trong những tác phẩm lưu truyền của các danh gia, chúng ta thường gặp những bài bị bệnh. Bị bệnh là vì thi nhân muốn cho câu thơ được già dặn hay dùng thực tự làm thi nhãn và quá chú trọng ở nhãn tự, nhiều khi quên nghĩ đến bệnh. Lúc đã nhận thấy lại tiếc chữ vừa ý, không muốn thay đổi.
Cho nên muốn tránh bệnh Thượng Vĩ, chúng ta nên để ý đến chữ thứ 5 của 4 câu đi liền nhau, đừng cho trùng tự loại.
Khắc Khoải
Đã biết tình xa mộng khó đầy
Mà nào tĩnh giấc giữa cơn say
Đêm hiu hắt dệt làn sương mỏng
Mắt ngẩn ngơ trông ánh nguyệt gầy
Cuối nẻo hoa tàn lay lắt rụng
Bên trời lá úa xạc xào bay
Rồi đây lặng lẽ nhìn phương ấy
Gửi gió niềm thương tụ mỗi ngày
3. BỆNH PHONG YÊU
Bệnh sanh ra do chữ thứ 2 và chữ thứ 7 trùng thanh độ.
Thí dụ:
Để bụng phải đeo điều nhẹ nặng
Ôm tai mặc quách tiếng chê khen
(Trần Tế Xương)
In sáo vẽ cho thằng mặt trắng
Bẻ cò tính lại cái lương vàng
(Nguyễn Khuyến)
Văn tự viết cho thiên hạ giữ
Tính danh ghi để thế gian coi
(Quán Vinh)
Cầm lái mặc ai lăm đỗ bến
Giong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh
(Hồ Xuân Hương)
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa
(Bà Huyện Thanh Quan)
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
(Bà Huyện Thanh Quan)
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thắm thoát mấy tinh sương
(Bà Huyện Thanh Quan)
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
(Nguyễn Khuyến)
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
(Nguyễn Khuyến)
Bệnh Phong Yêu Hạc Tất trong thơ Thất Ngôn không mấy ai lưu tâm, trừ những người chuộng thanh vận, vì chỉ là "bệnh ngoài da" không có ảnh hưởng bao lăm đến thi nhạc. Như đọc những câu thượng dẫn, chúng ta nghe không đến nỗi chói tai. Và những câu mà chữ thứ 2 và chữ thứ 7 đều là đoản bình thanh, nếu đặt trước chữ 2 hay chữ 7 một chữ trường bình thanh, thì thanh âm của câu thơ trở nên hoàn toàn hài mỹ.
Thí dụ:
Bình tước mặc tranh treo trước án
Cầu ô sẵn nhịp bắc ngang sông
(Trần Tế Xương)
Gương nọ toan soi cho đẹp mặt
Phấn kia không lẽ nỡ dồi chân
(Trần Tế Xương)
Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng
Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông
Tôn Thọ Tường)
Bệnh tuy nhẹ, nhưng nếu tránh được thì càng hay, chúng ta nên tránh nhất là trong những câu có vần. Hễ chữ thứ 7, chữ hạ vần, là đoản bình thanh, thì chữ thứ 2 nên dùng trường bình thanh. Hễ chữ thứ 7 là trường thì chữ thứ 2 nên đoản. Đừng nên dùng trường thanh cả hai nơi. Nếu hai nơi đều là đoản thanh thì nên dùng một trường bình thanh ở trước nơi nầy hoặc nơi kia, như trên đã nói. Như thế là ổn. Trường bình thanh cũng cứu được khỏi bệnh trong những câu lẻ mà chữ 2 và chữ 7 trùng thanh độ về Thượng, Khứ, Nhập, như câu "Cầm lái... bến".
4. BỆNH HẠC TẤT
Bệnh hạc tất sanh ra ngay trong từng câu thơ Thất Ngôn.
Bệnh danh xuất phát từ chữ thứ 4, là chữ mà làng thơ gọi là hạc tất nghĩa là đầu gối chim hạc.
Chữ thứ 4 và chữ thứ 7 trùng thanh độ là bị bệnh hạc tất.
Thí dụ:
Nghe lời phi pháp tai làm điếc
Nghĩ nỗi nhân tình ruột lại đầy
(Khuyết danh)
Nghĩ câu năm nọ như ngày nọ
Nhớ đến bao giờ khóc bấy giờ
(Cựu thần nhà Lê)
Đã từng tắm gội ơn mưa móc
Cũng phải xênh xang hội gió mây
(Nguyễn Công Trứ)
Trăng thanh gió mát là tương thức
Nước biếc non xanh ấy cố tri
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Đầu trò tiếp khách trầu không có
Bác đến chơi đây ta với ta
(Nguyễn Khuyến)
Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
(Nguyễn Khuyến)
Bệnh hạc tất cổ nhân cũng ít lưu ý. Có nhiều câu đọc nghe chướng tai mà vì chuộng ý thú hơn thanh vận, nên được nhiều người đề cao. Như câu thơ của Đỗ Phủ:
Ba phiêu cô mễ trầm vân hắc
Lộ lãnh liên phòng trụy phấn hồng
(Sóng trôi lúa cô mễ làm chìm sắc đen của mây
Móc lạnh gương sen làm rụng màu hồng của phấn)
Câu "Lộ lãnh liên phòng trụy phấn hồng" cũng như câu "Nhớ đến bao giờ khóc bấy giờ", giọng thơ nghe gãy cúp. Thế mà Diệp Mộng Đắc đời Tống khen câu thơ của Đỗ Phủ là "Hàm cái càn khôn" nghĩa là ngậm che cả trời đất, và Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu khen câu thơ của cựu thần nhà Lê là "ảm đạm trầm thống, văn chương do ở chí tình, khiến người sau mấy trăm năm, còn muốn chung một giọt nước mắt".
Câu của Nguyễn Bỉnh Khiêm "Trăng thanh gió mát... Nước biếc non xanh...", đọc nghe như bị ngút hơi mà Tản Đà cũng khen là "Tuy chưa thần tiên, cũng đã thanh cao đến tuyệt vậy".
Diệp Mộng Đắc và Tản Đà nặng về tánh tình mà nhẹ về thanh điệu. Nếu là những người theo chủ trương âm nhạc trước hết thì mấy câu kia chắc không lọt tai Chu Lang.
Và cũng như bệnh phong yêu, bệnh hạc tất do 2 chữ thuộc đoản bình thanh gây nên, thì chỉ đưa vào câu thơ một chữ trường bình thanh thay cho chữ thứ nhứt hoặc chữ thứ ba hoặc chữ thứ bảy thì nguyên nhân phát sinh ra bệnh bị hóa giải ngay.
Phong yêu và hạc tất là hai bệnh thuộc về thanh. Trong bài nói về điệp thanh khuyên chúng ta tránh phạm lỗi "điệp thanh" chính là để tránh hai bệnh phong yêu và hạc tất nầy đó.
Trong bài nói về "điệp âm" và "điệp vận" khuyên nên tránh phạm hai lỗi nầy là để khỏi phải mắc những bệnh Bằng Nữu, Chánh Nữu là bệnh điệp âm và đại vận. Tiểu vận là bệnh điệp vận. Khuyên tránh trước rồi mới nói bệnh sau là cốt ý tránh gieo ấn tượng về bệnh mà xưa nay đã bị nhiều người đả kích.
Trong khi nói về bệnh, những điều đã nói được lập đi lập lại, hoặc khai triển thêm những điều mới nói đại lược, để cho các bạn thêm thấm nhuần, hầu có thể đi đến diệu xử của thanh vận.
_____________________________________Ghi chú: Trong sách có nói các đại danh gia thi sĩ cũng có người làm thơ sai luật thất đối phạm thi bịnh. Nhưng chúng ta không nên thấy họ là đại danh gia thi sĩ mà nghĩ rằng họ hoàn toàn đúng rồi bắt chước theo, rốt cuộc chúng ta cũng bị sai !
_____________________________________
Soksaray Blog's - 15/05/2015
Soksaray Julimimosa .
_____________________________________
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét